Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Sáu Mươi - Phẩm Tăng Thượng Mạn - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI THỨ HAI  

PHẨM SÁU MƯƠI

PHẨM TĂNG THƯỢNG MẠN  

PHẦN HAI  

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ Tát bị ma khống chế và làm rối loạn, chỉ nghe hư danh mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trước đây Bồ Tát đó chưa tu học bố thí Ba la mật đa, cho đến bát nhã Ba la mật đa. Chưa an trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không.

Chưa an trụ vào chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chưa an trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Chưa tu học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Chưa tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc. Chưa tu học tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Chưa tu học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Chưa tu học Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa. Chưa tu học pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa.

Chưa tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông. Chưa tu học mười lực Như Lai, cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Chưa tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Chưa tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Chưa tu học tất cả các hạnh của Đại Bồ Tát. Chưa tu học quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật. Vì lý do đó, họ làm cho ma được tiện lợi.

Đại Bồ Tát này không thể biết rõ hành tướng của bốn ma, vì lý do này, họ làm cho ma được tiện lợi. Đại Bồ Tát này không biết rõ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không biết rõ nhãn xứ cho đến ý xứ, không biết rõ sắc xứ cho đến pháp xứ, không biết rõ nhãn giới cho đến ý giới, không biết rõ sắc giới cho đến pháp giới.

Không biết rõ nhãn thức giới cho đến ý thức giới, không biết rõ nhãn xúc cho đến ý xúc, không biết rõ các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, không biết rõ địa giới cho đến thức giới.

Không biết rõ vô minh cho đến lão tử, không biết rõ bố thí Ba la mật cho đến bát nhã Ba la mật đa, không biết rõ pháp nội không cho đến vô tính tự tính không, không biết rõ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì, không biết rõ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

 Không biết rõ bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, không biết rõ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không biết rõ tám giải thoát cho đến mười biến xứ, không biết rõ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, không biết rõ Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân địa, không biết rõ pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa, không biết rõ năm loại mắt.

Sáu phép thần thông, không biết rõ mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, không biết rõ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, không biết rõ quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề, không biết rõ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng không biết rõ thật tướng tên gọi của các pháp hữu tình là vô tướng. Vì lý do đó mà được tiện lợi.

Ma tìm cách hóa ra đủ loại hình dáng, nói với Đại Bồ Tát này: Hạnh nguyện tu hành của ông đã viên mãn, ông sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Lúc ông thành Phật sẽ được công đức thù thắng và danh hiệu tôn qúi như vậy.

Vì ác ma kia biết Bồ Tát này từ lâu đã ước nguyện: Khi con thành Phật sẽ được công đức và danh hiệu như vậy, nên ma theo ý muốn kia mà thọ ký như vậy.

Lúc đó, vì xa lìa bát nhã Ba la mật đa, không có phương tiện thiện xảo, nên khi nghe ma thọ ký, Bồ Tát ấy nghĩ: Lạ thay, người này báo trước là ta sẽ được thành Phật với công đức và danh hiệu tương ưng với điều ta nghĩ và ước nguyện từ lâu.

Do đó biết được Chư Phật quá khứ đã thọ ký đại bồ đề cho ta chắc chắn ta sẽ đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề không còn thối lui nữa. Lúc thành Phật nhất định ta sẽ được danh hiệu tôn quí và công đức như vậy.

Bồ Tát ấy bị ác ma, hoặc quyến thuộc của ma, hoặc Sa Môn… do ma sai khiến đến thọ ký: Tương lai ông sẽ thành Phật có danh hiệu như vậy, như vậy nên vị ấy càng tăng thêm kiêu mạn và nghĩ: Đời vị lai chắc chắn ta sẽ thành Phật, đạt được công đức và danh hiệu như vậy, các Bồ Tát khác đều không bằng ta.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết như ta đã nói diễn tiến các tướng trạng của Đại Bồ Tát đã đắc Bất Thối Chuyển, Đại Bồ Tát này đều chưa thành tựu chỉ vì nghe ma giả vờ nói mình sẽ được thành Phật mà vị ấy liền sanh kiêu mạn coi khinh, hủy báng các Bồ Tát khác.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết do phát sanh kiêu mạn, khinh chê hủy báng các Bồ Tát khác nên Đại Bồ Tát đó xa lìa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết vì xa lìa bát nhã Ba la mật đa, không có phương tiện thiện xảo, lìa bỏ bạn lành, thường bị lệ thuộc bạn ác nên Đại Bồ Tát đó sẽ bị đọa vào địa vị Thanh Văn hoặc Ðộc Giác.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết nếu ngay đời này, Đại Bồ Tát đó trở lại giữ chánh niệm, hết lòng ăn năn hối cải, xả bỏ tâm kiêu mạn, thường thân cận bạn lành thì tuy phải trôi lăn trong sanh tử suốt một thời gian dài nhưng sau đó vị ấy dựa vào phương tiện thiện xảo của bát nhã Ba la mật đa sâu xa, lần lần tu học và sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết nếu ngay trong đời này, Đại Bồ Tát đó không có chánh niệm, không thể ăn năn hối cải, không xả bỏ tâm kiêu mạn, không thích gần gũi bạn lành thì chắc chắn sau một thời gian dài trôi lăn trong sanh tử, dù tinh tấn tu các nghiệp lành vị ấy vẫn bị rơi vào địa vị Thanh Văn, Ðộc Giác.

Giống như Bí Sô là người cầu quả vị Thanh Văn, nếu phạm một trong bốn trọng tội thì người đó liền chẳng phải là Sa Môn, chẳng phải là Thích tử. Trong đời hiện tại chắc chắn người đó không thể đạt được bốn quả Sa Môn, Bồ Tát vọng chấp vào hư danh cũng giống như vậy.

Chỉ nghe ma giả vờ nói mình sẽ thành Phật, họ liền phát sanh tâm ngạo mạn, khinh chê hủy báng các Đại Bồ Tát khác. Nên biết tội này lớn hơn bốn tội trọng mà Bí Sô phạm gấp vô lượng lần. Không bàn đến bốn trọng tội mà Bí Sô phạm, so với năm tội vô gián, tội của Bồ Tát này cũng gấp vô số lần.

Vì sao?

Vì thật sự Đại Bồ Tát này chưa thành tựu công đức thù thắng, chỉ nghe ác ma thọ ký cho mình thành Phật một cách hư dối, người ấy liền kiêu mạn khinh chê Bồ Tát khác. Do đó tội này hơn năm tội vô gián.

Vì vậy nên biết nếu muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, Đại Bồ Tát này phải hiểu biết rõ việc làm vi tế của ma như là báo trước danh hiệu một cách hư dối… và phải siêng năng cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ Tát tu hạnh viễn ly, nghĩa là ở ẩn nơi núi rừng, đầm vắng, đồng trống ở nơi vắng vẻ, yên tịnh ngồi yên lặng tư duy. Lúc ấy có ác ma đến chỗ người ấy, cung kính khen ngợi nói: Lành thay!

Đại Sĩ có thể tu hạnh viễn ly chân chánh như vậy, hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng khen ngợi. Trời Đế Thích, Chư Thiên, thần tiên đều ủng hộ, cúng dường, tôn trọng người có hạnh này. Ông phải thường ở đây đừng có đi nơi khác.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết ta không khen ngợi các Bồ Tát ở nơi vắng vẻ, yên tịnh như đồng trống, rừng núi, ngồi yên tư duy, tu hạnh viễn ly.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát nên tu những hạnh viễn ly nào khác mà Phật lại không khen ngợi công đức viễn ly ở nơi vắng vẻ như núi rừng, đồng trống, không dùng ngọa cụ tốt đẹp và ngồi yên tư duy?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hoặc ở núi rừng, đầm vắng, đồng trống, những nơi vắng vẻ, hoặc ở thành ấp, xóm làng, kinh đô, những nơi ồn ào phức tạp, chỉ có người nào có thể xa lìa nghiệp ác phiền não và sự mong cầu quả Thanh Văn, Ðộc Giác siêng năng tu hành bát nhã Ba la mật đa và các công đức thù thắng khác mới được gọi là Bồ Tát thực hành viễn ly chân thật.

Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng khen ngợi, được Chư Phật Thế Tôn thừa nhận cho phép các Bồ Tát thường tu học.

Hoặc ngày hoặc đêm nên tư duy chân chánh, siêng năng tu học pháp viễn ly này. Đó là hạnh viễn ly của Bồ Tát. Hạnh viễn ly này không nên xen lẫn ý mong cầu quả Thanh Văn, Ðộc Giác, và tất cả nghiệp ác phiền não.

Nó lìa tất cả sự ồn ào tạp nhạp và hoàn toàn trong sạch làm cho các Bồ Tát mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề và thường không ngừng làm lợi lạc hữu tình. Việc mà ác ma khen ngợi như ở núi rừng, đầm vắng, đồng hoang không dùng ngọa cụ mới ngồi yên, tư duy ở nơi vắng vẻ chẳng phải là hạnh viễn ly chân thật của Bồ Tát.

Vì sao?

Vì hạnh viễn ly kia còn có sự ồn ào tạp nhạp nghĩa là hạnh đó còn xen lẫn với nghiệp ác phiền não hoặc còn tác ý về quả Thanh Văn, Ðộc Giác, chẳng thể siêng năng tin tưởng tu học bát nhã Ba la mật đa, không thể viên mãn trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết có Đại Bồ Tát tu hạnh viễn ly mà ma khen ngợi lại sanh tâm kiêu mạn không trong sạch khinh chê chửi mắng các Đại Bồ Tát khác.

Nghĩa là có các Đại Bồ Tát tuy sống ở thành ấp, xóm làng, kinh đô nhưng tâm trong sạch, không xen lẫn các loại nghiệp ác phiền não và tác ý về quả Thanh Văn, Ðộc Giác, siêng năng tu học bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa.

Siêng năng an trụ vào pháp nội không cho đến vô tính tự tính không, siêng năng an trụ vào chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì, siêng năng an trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, siêng năng tu học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, siêng năng tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông và các công đức thế gian.

Siêng năng tu học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, siêng năng tu học mười địa Bồ Tát, siêng năng tu học pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa, siêng năng tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Siêng năng tu học tám giải thoát cho đến mười biến xứ, siêng năng tu học mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, siêng năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, siêng năng tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng và trí nhất thiết tướng, trang nghiêm Cõi Phật, giáo hóa hữu tình.

Tuy ở nơi ồn ào mà tâm họ thường vắng lặng và thường tu hạnh viễn ly chân thật. Đối với các Đại Bồ Tát thật sự trong sạch như vậy mà người kia thường sanh tâm ngạo mạn khinh chê, chửi mắng, phỉ báng, lấn lướt.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết vì Đại Bồ Tát này xa lìa bát nhã Ba la mật đa, không có phương tiện thiện xảo, nên tuy ở trong đồng vắng rộng cả trăm do tuần, trong đó tuyệt đối không có các loại thú dữ, rắn rít, đạo tặc, chỉ có quỉ thần, la sát dạo ở trong ấy.

Giả sử người ấy ở nơi vắng vẻ như vậy suốt một năm, năm năm hoặc mười năm hoặc cho đến trăm ngàn ức hoặc lâu hơn nữa tu hạnh viễn ly nhưng không hiểu rõ hạnh viễn ly chân chánh, nghĩa là các chúng Đại Bồ Tát tuy ở nơi ồn ào mà tâm vắng lặng, xa lìa các loại ác nghiệp phiền não và tác ý về Thanh Văn, Ðộc Giác mà hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết tuy Đại Bồ Tát ấy ở nơi vắng vẻ trong một thời gian dài nhưng còn xen lẫn ý nghĩ về quả vị Thanh Văn, Ðộc Giác và vui thích hai địa vị đó. Họ căn cứ vào giáo pháp thuộc hai địa vị đó để tu hạnh viễn ly và đắm nhiễm nặng nề vào hạnh đó.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết tuy tu hạnh viễn ly như vậy nhưng người ấy không được gọi là tùy thuận đúng theo tâm của các Đức Như Lai.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết các hạnh viễn ly chân thật của Đại Bồ Tát mà ta khen ngợi Đại Bồ Tát ấy đều chưa thành tựu. Trong hạnh viễn ly thù thắng chân thật cũng chẳng thấy người ấy có hành tướng tương tợ.

Vì sao?

Vì người ấy không ưa thích hạnh viễn ly chân thật của Bồ Tát và chỉ thích siêng năng tu tập hạnh viễn ly rỗng không của Thanh Văn, Ðộc Giác.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết khi Đại Bồ Tát này tu hạnh viễn ly không thật sự thù thắng, ma đến ở trên không trung, vui mừng khen ngợi: Lành thay! Lành thay! Này Đại Sĩ. Ông có thể siêng năng tu hạnh viễn ly chân thật. Hạnh viễn ly này được tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng khen ngợi.

Ông phải siêng năng tu học hạnh này để mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết, các Bồ Tát này ưa thích đắm trước hạnh viễn ly mà nhị thừa tu tập, khinh chê hủy báng các Bí Sô thực hành theo Bồ Tát thừa, tuy ở nơi ồn ào nhưng tâm thường vắng lặng và nói: Những Bí Sô ấy không thể tu hạnh viễn ly bởi vì thân họ ở nơi ồn ào, tâm họ không được vắng lặng và hoàn toàn không có pháp điều phục.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết, Bồ Tát này khinh chê chửi mắng các Bậc Bồ Tát tu hạnh viễn ly chân thật mà Phật khen ngợi. Họ cho rằng các vị ấy ở nơi ồn ào, tâm không vắng lặng, không thể siêng năng tu hạnh viễn ly chân thật và cho rằng các Bậc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không khen ngợi các vị Đại Bồ Tát sống ở nơi ồn ào phức tạp, chỉ tôn trọng ngợi khen các Bồ Tát sống ở nơi không ồn ào phức tạp và giữ tâm vắng lặng mới có thể chân chánh tu hành theo hạnh viễn ly chân thật.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết đối với những người đáng được thân cận, cung kính, cúng dường giống như Chư Phật, Bồ Tát ấy đã không thân cận, cung kính, cúng dường lại còn khinh chê, chửi mắng. Đối với những hạng không nên thân cận, cung kính, cúng dường như là bạn ác thì người ấy lại thân cận, cung kính, cúng dường như là phụng sự Đức Phật.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết vì Đại Bồ Tát này xa lìa bát nhã Ba la mật đa không có phương tiện khéo léo nên vọng sanh đủ loại phân biệt, chấp trước.

Vì sao?

Vì người ấy nghĩ pháp ta đang tu học là hạnh viễn ly chân thật cho nên được phi nhơn khen ngợi, ủng hộ. Những người sống ở thành ấp thì thân tâm rối loạn làm sao có ai giúp đỡ, cung kính, khen ngợi được.

Vì lý do đó, Bồ Tát này rất kiêu mạn, khinh chê chửi mắng các vị Đại Bồ Tát khác làm nghiệp ác, phiền não ngày càng tăng thêm.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết đối với các Bồ Tát khác, Bồ Tát đó là hạng chiên đà la người hiểm ác làm nhiễm ô các vị Đại Bồ Tát khác.

Tuy có tướng mạo giống các Đại Bồ Tát khác nhưng thật ra họ là tên giặc lớn trong Trời người, lừa dối Trời, Người, A Tố Lạc…tuy thân mặc pháp y của Sa Môn nhưng tâm họ thường ôm lòng ham muốn của quân trộm cướp. Những ai hướng đến Bồ Tát thừa thì không nên thân cận, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen người ác như thế.

Vì sao?

Ông nên biết người đó ôm lòng tăng thượng mạn, bên ngoài giống như Bồ Tát nhưng bên trong chứa nhiều phiền não.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thật sự không xả bỏ trí nhất thiết trí, không xả bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, thân tâm mong cầu trí nhất thiết trí, muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề làm lợi lạc tất cả hữu tình thì không nên thân cận, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen người ác như vậy.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết các Đại Bồ Tát phải thường tinh tấn tu sự nghiệp của chính mình, xa lìa sanh tử, không tham đắm trong ba cõi.

Đối với hạng chiên đà la xấu xa kia Đại Bồ Tát phải thường phát sanh từ bi, hỷ xả và nghĩ như vậy: Ta không nên làm phát sanh lầm lỗi như người ác kia đã làm, giả sử bị thất niệm và chợt phát sanh lầm lỗi như người kia thì ta phải lập tức tỉnh giác và mau chóng diệt trừ lầm lỗi đó.

Vì vậy Đại Bồ Tát nào muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề phải hiểu biết rõ ràng các việc của ác ma, phải siêng năng tinh tấn diệt trừ, xa lìa các lỗi lầm mà Bồ Tát kia đã mắc phải và siêng năng cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào có ý tăng thượng muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề nên thường thân cận, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen các vị thiện tri thức chân chánh. 

Khi ấy, Thiện Hiện liền bạch Phật: Những ai là thiện tri thức chân chánh của Đại Bồ Tát?

Phật Bảo: Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là thiện tri thức chân chánh của các vị Bồ Tát. Tất cả các vị Đại Bồ Tát cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát.

Các vị Thanh Văn và các thượng sĩ nào có thể tuyên bày, khai thị, phân biệt rõ ràng cho Đại Bồ Tát về pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa tương ưng với ý nghĩa của nó và làm cho dễ hiểu thì cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa là thiện tri thức chân chánh của các vị Bồ Tát. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát.

Tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát.

Pháp Môn Đà La Ni và Tam Ma Địa cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. 

Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Tất cả các hạnh của Đại Bồ Tát cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát.

Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Dứt trừ vĩnh viễn tất cả sự tương tục của tập khí phiền não cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát.

Lại nữa Thiện Hiện! Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Các pháp duyên tánh cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Các chi duyên khởi cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát.

Pháp nội không cho đến vô tính tự tính không cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát. Chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng là thiện tri thức chân chánh của Bồ Tát.

Lại nữa Thiện Hiện! Đối với các vị Đại Bồ Tát, bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ.

Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự hiểu biết giác ngộ, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Pháp Môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Pháp Môn Đà La Ni và Tam Ma Địa cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự hiểu biết giác ngộ, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ giải thoát, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Tất cả các hạnh của Đại Bồ Tát cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

Dứt trừ vĩnh viễn các tập khí tương tục cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần