Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Bốn - Phẩm Thác Sinh Cung Trời đâu Suất - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM BỐN

PHẨM THÁC SINH

CUNG TRỜI ĐÂU SUẤT  

PHẦN HAI  

Này Kim Đoàn, phàm Bồ Tát bổ xứ ở trong thai mẹ, thì người mẹ đó phải có đủ ba mươi hai điều kiện mới có khả năng nhận lãnh việc Bồ Tát ở trong thai.

Ba mươi hai điều kiện đó là gì?

1. Người mẹ đó được sinh trong nhà đạo đức chân chánh.

2. Người mẹ đó tứ chi thân thể vẹn toàn.

3. Người mẹ đó đức hạnh vẹn toàn.

4. Người mẹ đó được sinh trong nhà tôn quý.

5. Người mẹ đó phải là bậc mẫu mực.

6. Người mẹ đó thuộc chủng tộc thanh tịnh.

7. Người mẹ đó hình dung đoan chánh không ai sánh bằng.

8. Người mẹ đó địa vị và đức hạnh phải tương xứng.

9. Người mẹ đó hình dung trên dưới cân đối.

10. Người mẹ đó chưa từng sinh sản.

11. Người mẹ đó có công đức lớn.

12. Người mẹ đó tâm thường nghĩ đến điều vui.

13. Người mẹ đó tâm thường tùy thuận tất cả việc thiện.

14. Người mẹ đó không có tâm tà vạy.

15. Người mẹ đó ba nghiệp thân khẩu ý được điều phục.

16. Người mẹ đó không có tâm sợ sệt.

17. Người mẹ đó học rộng nhớ dai.

18. Người mẹ đó rất giỏi về nữ công.

19. Người mẹ đó không có tâm dua nịnh.

20. Người mẹ đó không có tâm dối gạt.

21. Người mẹ đó không có tâm sân hận.

22. Người mẹ đó không có tâm đố kỵ.

23. Người mẹ đó không có tâm bỏn sẻn.

24. Người mẹ đó không có tâm bồng bột.

25. Người mẹ đó có tâm khó có thể lay chuyển.

26. Người mẹ đó có tướng mạo rất tốt.

27. Người mẹ đó tâm thường giữ tính nhẫn nhục.

28. Người mẹ đó có tâm biết hổ thẹn.

29. Người mẹ đó ít dâm dục, sân hận, ngu si.

30. Việc làm của người mẹ đó không trái với nữ hạnh.

31. Người mẹ đó có hạnh chiều chuộng chồng con.

32. Người mẹ đó phát sinh các hạnh công đức đều được đầy đủ.

Người mẹ như vậy, mới có khả năng thọ nhận hậu thân của Bồ Tát bổ xứ. Khi Bồ Tát muốn nhập vào thai Thánh Mẫu, phải chọn ngày quỷ tú. Sau đó mới thác sinh vào thai mẹ.

Trước khi Thánh Mẫu mang thai Bồ Tát bổ xứ, cần phái tu Bát Quan Trai rồi sau đó Bồ Tát mới giáng thần vào thai.

Bồ Tát Hộ Minh lại nói: Ngày nay ta thọ thân này, chẳng phải vì tiền tài và thú vui năm dục ở thế gian. Ta thọ sinh một đời này ở nhân gian, chỉ vì thương xót chúng sinh khổ não mà đem lại sự an vui cho họ.

Trong chúng hội, có một Thiên Nữ bảo với một Thiên Nữ khác: Đức Bồ Tát Hộ Minh là bậc tôn quý của chúng ta, nhất định sẽ giáng sinh vào cõi nhân gian, Ngài sẽ rời bỏ chúng ta và Cung Điện này, tại sao ta còn thích ở nơi đây?

Thiên Nữ thứ hai liền đáp: Làm sao! Biết làm sao! Chúng ta không biết làm gì bây giờ để đến được cõi nhân gian, quan sát tường tận nơi Bồ Tát thác sinh là nhà nào!

Thiên Nữ thứ ba đưa ra ý kiên: Ngày nay chúng ta nguyện xả bỏ tuổi thọ Cõi Trời này để đến thọ sinh vào Cõi Diêm Phù Đề.

Vì sao?

Vì chúng ta cũng nguyện đến đó, cùng sinh một lượt với Bồ Tát Hộ Minh của chúng ta.

Thiên Nữ thứ tư nói: Chúng ta không nên luyến tiếc cảnh giới này.

Vì sao?

Vì Đức Bồ Tát Hộ Minh, Đấng tôn quý của chúng ta còn xả bỏ tuổi thọ cõi này để sinh xuống nhân gian, huống nữa là chúng ta.

Lại một Thiên Nữ khác bạch Tôn Giả Hộ Minh: Ngày nay Ngài giáng sinh vào Cõi Diêm Phù Đề, cúi xin Đại Sĩ chớ quên chúng tôi.

Bồ Tát Hộ Minh bảo các Thiên Nữ: Các người chớ quá sinh khổ não, ta trước đây đã vì các người nói tất cả cảnh giới đều là vô thường, như thân cây chuối không có bền chắc, như mượn đồ của người, dùng rồi phải trả lại cho chủ, chẳng phải vật sở hữu của mình. Giống như sóng nắng, như trò huyễn thuật, như bọt nước. Tất cả cảnh giới dối gạt người ngu si, họ cho là thường trụ.

Bấy giờ trong đại chúng có một Thiên Tử, tâm buồn rầu áo não, than thở: Xét như lời dạy của Bồ Tát, tất cả cảnh giới đều là vô thường chẳng thật.

Lạ thay! Vậy thì chúng ta cần gì phải đam mê nơi đây?

Chúng ta ngày nay thấy Bồ Tát Hộ Minh, thân thể có đầy đủ công đức như vậy. Ngài sinh vào cung Trời Đâu Suất này, chứa nhóm phước đức như vậy, đàng hoàng ngay thẳng như vậy, trang nghiêm đẹp đẽ như vậy, mà Bồ Tát lại xả bỏ, giáng sinh vào trần thế.

Lạ thay! Tại sao riêng chúng ta sống nơi cảnh giới vô thường này?

Khi ấy, có một Thiên Tử thứ hai đáp: Hay thay, Thiên Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Y như lời ông đã nói.

Rồi người nói kệ:

Đại Bồ Tát Hộ Minh thuở trước

Đã từng sinh trong cõi hữu hình.

Từ nô tỳ, voi ngựa, ngọc ngà,

Đến quý nhất vợ con đều xả.

Hoặc lại cắt thịt xương thân thế

Đầu, mắt, tủy, máu, da đều thí.

Xin như vậy thảy đều toại ý

Trăm ngàn lần Bồ Tát đều cho.

Bấy giờ, trong đại chúng có một Thiên Tử khác nói kệ:

Than ôi thân chúng ta,

Sinh ra trong Thiên Giới.

Hiện đang lo sa đọa,

Như người sợ tử thần.

Có ai trong thế gian,

Hưởng phước không cùng tận?

Thế Giới vô thường này,

Có sinh đều phải diệt.

Bồ Tát Hộ Minh bảo Chư Thiên: Này Chư Thiên, tất cả các pháp thế gian, sinh tử biệt ly là căn bản, các ông chẳng nên vì ta mà khổ não buồn rầu.

Vì sao?

Ta từ xưa đến nay không phạm các ác nghiệp. Nay các ông muốn ta sống lâu ở nơi đây, hoàn toàn không thể được. Ta trong đời quá khứ sống gần gũi Phật Pháp Tăng, trồng các thiện nghiệp, thường phát đạo tâm, mong cầu đại nguyện, nên ngày hôm nay ta được phước báo, sẽ chứng quả vô thượng bồ đề.

Lẽ ra các ông phải hoan hỷ, tại sao lại sinh khổ não?

Chư Thiên nghe lời này rồi, nói với nhau: Chư Thiên chúng ta thấy rõ Đại Sĩ Hộ Minh, quả nhiên chẳng bao lâu Ngài sẽ giáng sinh vào cõi nhân gian.

Và họ đồng xướng lên: Tôn Giả Hộ Minh! Ngài chẳng bao lâu sẽ sinh vào cõi nhân gian, thì bao nhiêu oai đức và phước lợi của Cung Điện Chư Thiên Cõi Trời Đâu Suất này sẽ đi theo Ngài.

Ngài sẽ thọ lấy thân tứ đại cuối cùng ở nhân gian, Chư Thiên chúng tôi sẽ biết phụng thờ ai?

Bồ Tát Hộ Minh bảo Chư Thiên: Thân ta trước khi chưa xuất hiện năm tướng suy thoái, ta đã vì các ông giảng nói các pháp nhân duyên vô thường, các ông cần nhất tâm ghi nhớ các pháp ấy, chớ nên lãng quên.

Ta nay từ biệt nơi đây sinh đến nhân gian, sẽ chứng quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, chuyển pháp luân vô thượng vi diệu.

Các ông có thể phát nguyện thọ thân ở dưới trần gian, sau khi sinh vào đó rồi, các ông sẽ được giải thoát tất cả khổ não. Sau khi Đức Bồ Tát Hộ Minh đã quán sát gia tộc để làm nơi thác sinh rồi, Cõi Trời Đâu Suất ngay khi đó xuất hiện một Cung Điện tên là Cao Tràng, cao rộng bằng sáu mươi do tuần, Bồ Tát luôn luôn ở trong Cung Điện này, vì Chư Thiên mà thuyết giảng các pháp trọng yếu.

Bồ Tát an tọa trong Cung Điện này rồi, liền bảo Chư Thiên Tử Cõi Trời Đâu Suất: Này Chư Thiên, các ông nên tập họp nơi đây, thân ta chẳng bao lâu nữa sẽ giáng sinh xuống trần gian, ta nay muốn nói một Pháp Minh Môn, gọi là cửa ngõ phương tiện để vào thật tướng các pháp, là lời giáo hóa tối hậu để lại cho các ông.

Nếu các ông nhớ tưởng đến ta thì khi các ông nghe pháp môn này nên sinh tâm hoan hỷ. Đại chúng Chư Thiên Cõi Trời Đâu Suất Đà nghe lời nói này rồi, tất cả quyến thuộc Chư Thiên, ngọc nữ đều tập họp nơi Cung Điện.

Bồ Tát Hộ Minh thấy đại chúng Chư Thiên tề tựu xong, liền vì họ mà thuyết pháp. Ngay lúc đó lại hóa hiện một Cung Điện khác ở trên Cung Điện Cao Tràng, cao lớn rộng rãi che phủ cả bốn châu thiên hạ, nguy nga tráng lệ, ít có Cung Điện nào bì kịp.

Cung Điện dùng toàn bảy báu trang hoàng, oai nghiêm lộng lẫy, tất cả Cung Điện Cõi Trời Dục không thể sánh bằng. Chư Thiên Sắc Giới thấy Cung Điện này, tâm họ liên tưởng Cung Điện của mình không khác nào gò mả.

Trong quá khứ, Bồ Tát Hộ Minh đã tu các hạnh, trồng các thiện căn, thành tựu vô lượng phước nghiệp, đầy đủ các công đức, nên khi Ngài an tọa trên Tòa Sư Tử cao rộng trang nghiêm, tòa này được dùng vô lượng các thứ quý báu phối hợp trang hoàng, vô lượng vô biên các loại y Cõi Trời trải trên tòa ấy, với vô lượng vô biên các lư bằng ngọc quý, xông các danh hương tỏa lên mùi thơm ngào ngạt vi diệu và các hoa thơm rải trên mặt đất.

Tòa được trăm ngàn vạn ức trân bảo trang hoàng nên hào quang làm sáng rực cả Cung Điện. Phía trên và dưới Cung Điện được bủa giăng những mành lưới bằng ngọc quý, xen lẫn các chuông rung bằng vàng, phát ra những âm thanh vi diệu.

Đại Cung Điện quý báu này lại có hàng ngàn vạn tàn lọng và những tua màu sắc sặc sỡ, tỏa ra ánh sáng khắp bốn bên.

Lại với vô lượng vô biên trăm ngàn ngọc nữ, mỗi người đem theo những nhạc cụ bằng bảy báu, phát ra những âm thanh tán thán Bồ Tát trong quá khứ đã trồng vô lượng vô biên công đức.

Bốn Vua Hộ Thế, với trăm ngàn vạn ức Thiên chúng hộ vệ hai bên Cung Điện, và hàng ngàn vạn chúng Trời Đế Thích lễ bái Cung Điện này, ngàn vạn chúng Cõi Trời Phạm Thiên cũng đồng lễ bái Cung Điện này, lại có trăm ngàn vạn na do tha Chư Vị Bồ Tát hộ trì Cung Điện này, Cung Điện này cũng được trăm ngàn vạn na do tha Chư Phật mười phương đồng hộ niệm.

Bồ Tát Hộ Minh đã trải qua trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp tu hành các hạnh Ba La Mật, được thành tựu phước báo như vậy, nhân duyên đầy đủ, công đức luôn luôn tăng trưởng, hết thảy đều được trang nghiêm như vậy.

Bồ Tát ngồi trên Tòa Sư Tử cao lớn vi diệu này, bảo tất cả đại chúng Chư Thiên: Này Chư Thiên, ta nay ở nơi đây sắp thác sinh vào nhân gian, đối trước Chư Thiên ta cần trình bày rõ ràng một trăm lẻ tám Pháp Minh Môn, để lại cho Chư Thiên nghiên cứu học tập, rồi sau đó ta mới hạ sinh.

Này Chư Thiên, các ông phải chú ý lắng nghe và ghi nhớ vào tâm khảm một trăm lẻ tám Pháp Minh Môn, mà ta sắp nói đây:

Chánh tín: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tâm chánh tín bền vững không bị thoái chuyển.

Tịnh tâm: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tâm không vẩn đục.

Hoan hỷ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tâm được an ổn.

Yêu thích: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tâm được thanh tịnh.

Thân thanh tịnh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả giữ ba nghiệp của thân thanh tịnh.

Khẩu thanh tịnh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả dứt bốn điều ác nơi miệng.

Ý thanh tịnh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả dứt ba độc nơi ý.

Niệm Phật: Pháp Minh Môn này giúp hành giả quán Phật thanh tinh.

Niệm pháp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả quán pháp thanh tịnh.

Niệm Tăng: Pháp Minh Môn này giúp hành giả đắc đạo kiên cố.

Niệm thí: Pháp Minh Môn này giúp hành giả bố thí, tâm không mong cầu quả báo.

Niệm giới: Pháp Minh Môn này giúp tất cả nguyện của hành giả đều được đầy đủ.

Niệm thiên: Pháp Minh Môn này giúp hành giả phát tâm rộng lớn.

Niệm từ: Pháp Minh Môn này làm cho hành giả sinh bất cứ ở đâu, thiện căn cũng được thù thắng.

Bi: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không sát hại chúng sinh.

Hỷ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả trong tâm không còn chứa điều chẳng vui.

Xả: Pháp Minh Môn này giúp hành giả nhàm chán, xa lìa ngũ dục.

Quán vô thường: Pháp Minh Môn này giúp hành giả quán sự ưa đắm trong tam giới là giả tạm.

Quán khổ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả đoạn tất cả các điều ham muốn.

Quán vô ngã: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không còn chấp ngã.

Quán tịch tĩnh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tâm ý không loạn động.

Hổ thẹn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tâm được bình thản.

Xấu hổ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả diệt các ác bên ngoài.

Thật: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không dối gạt người, Trời.

Chân: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không tự dối mình.

Pháp hành: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tùy thuận các pháp mà thực hành.

Tam Quy: Pháp Minh Môn này giúp hành giả khỏi sa ba đường ác.

Tri ân: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thiện căn được tồn tại.

Báo ân: Pháp Minh Môn này giúp hành giả chẳng phụ bỏ người ta.

Không dối mình: Pháp Minh Môn này giúp hành giả chẳng tự khen mình.

Vì chúng sinh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không chê bai người khác.

Vì pháp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thực hành đúng chánh pháp.

Biết thời: Pháp Minh Môn này giúp hành giả ăn nói đúng lúc.

Kiểm thúc ngã mạn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả trí tuệ đầy đủ.

Chẳng sinh tâm ác: Pháp Minh Môn này giúp hành giả và người khác được bảo vệ.

Không chướng ngại: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không tâm nghi hoặc.

Tin một cách rõ ràng: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thấu triệt đệ nhất nghĩa.

Quán bất tịnh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không còn tâm dục nhiễm.

Không đấu tranh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không có tâm thù oán kiện tụng.

Không si mê: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không còn sát sinh.

Ưa thích nghĩa các pháp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả cầu được nghĩa các pháp.

Muốn rõ các pháp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả rõ được các pháp.

Cầu đa văn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả quán đúng thật tướng các pháp.

Phương tiện chân chánh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả hành động chân chánh.

Biết danh sắc: Pháp Minh Môn này giúp hành giả trừ được các chướng ngại thân và tâm.

Trừ nguyên nhân kiến chấp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả được giải thoát.

Không tâm oán thân: Pháp Minh Môn này giúp hành giả đối với kẻ oán người thân đều sinh tâm bình đẳng.

Ngũ ấm tạm bợ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả biết được nguyên nhân đau khổ.

Các đại bình đẳng: Pháp Minh Môn này giúp hành giả đoạn các pháp hòa hợp.

Sáu nhập: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tu theo chánh đạo.

Vô sinh nhẫn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả chứng được tịch diệt.

Quán thân thể: Pháp Minh Môn này giúp hành giả biết các pháp tịch tĩnh.

Quán cảm thọ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả dứt được các cảm thọ.

Quán tâm tưởng: Pháp Minh Môn này giúp hành giả biết tâm như huyễn hóa.

Quán các pháp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả trí tuệ sáng tỏ.

Bốn thứ siêng năng chân chánh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả dứt các điều ác, làm các điều lành.

Bốn thứ đầy đủ như ý: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thân tâm nhẹ nhàng.

Tín căn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả chẳng chạy theo lời nói kẻ khác.

Tinh tấn căn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả khéo chứng các trí.

Niệm căn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả khéo tạo các thiện nghiệp.

Định căn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tâm được thanh tịnh.

Tuệ căn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả hiện tại nhận định rõ cắc pháp.

Tín lực: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thoát khỏi ma lực.

Tinh tấn lực: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không thoái chuyển.

Niệm lực: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không loạn tưởng đến pháp khác.

Định lực: Pháp Minh Môn này giúp hành giả dứt trừ vọng niệm.

Tuệ lực: Pháp Minh Môn này giúp hành giả lìa hai chấp có không.

Niệm giác chi: Pháp Minh Môn này giúp hành giả có trí hiểu các pháp đúng như thật.

Trạch pháp giác chi: Pháp Minh Môn này giúp hành giả phân biệt các pháp một cách rõ ràng.

Tinh tấn giác chi: Pháp Minh Môn này giúp hành giả có điều kiện tốt đưa đến sự hiểu biết.

Hỷ giác chi: Pháp Minh Môn này giúp hành giả chứng các định.

Trừ giác chi: Pháp Minh Môn này giúp hành giả hoàn tất bổn phận.

Định giác chi: Pháp Minh Môn này giúp hành giả biết các pháp bình đẳng.

Xả giác chi: Pháp Minh Môn này giúp hành giả nhàm chán xa lìa các pháp.

Chánh kiến: Pháp Minh Môn này giúp hành giả dứt các lậu nghiệp, chứng Thánh đạo.

Chánh phân biệt: Pháp Minh Môn này giúp hành giả đoạn tất cả phân biệt và vô phân biệt.

chánh ngữ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả biết tất cả danh tự, âm thanh, ngữ ngôn một cách rõ ràng, không thật như tiếng vang.

chánh nghiệp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không tạo nghiệp xâu và thọ quả báo xấu.

Chánh mạng: Pháp Minh Môn này giúp hành giả diệt trừ các ác đạo.

Chánh hạnh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả đến được bờ giải thoát.

Chánh niệm: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không suy nghĩ các pháp khác.

Chánh định: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tâm không tán loạn, được vắng lặng.

Tâm Bồ Đề: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không bỏ Tam Bảo.

Y ỷ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không thích pháp tiểu thừa.

Chánh tín: Pháp Minh Môn này giúp hành giả hiểu được chỗ cao xa của Phật Pháp.

Tăng tấn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thành tựu các thiện căn.

Bố thí: Pháp Minh Môn này giúp hành giả luôn luôn giáo hóa chúng sinh tham lam để thành tựu trang nghiêm cảnh giới Chư Phật.

Giới luật: Pháp Minh Môn này giúp hành giả giữ giới luật thanh tịnh, giáo hóa những kẻ phá giới, vượt khỏi các nạn trong ác đạo.

Nhẫn nhục: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không còn các tâm: sân hận, tự cao, a dua, nịnh bợ mà giáo hóa các chúng sinh có những tật xấu đó.

Tinh tấn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả làm các điều lành, giáo hóa những kẻ giải đãi.

Thiền định: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thành tựu các thiền định và thần thông để giáo hóa những kẻ tán loạn.

Trí tuệ: Pháp Minh Môn này giúp hành giả bỏ được tánh bảo thủ và những tư tưởng vô minh hắc ám để giáo hóa hạng người ngu si.

Phương tiện: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tùy thuận hoàn cảnh và trình độ của chúng sinh mà thị hiện giáo hóa để các Phật Sự được thành tựu.

Tứ nhiếp pháp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả tiếp nhận chúng sinh vào đạo bồ đề, rồi sau đó dạy Phật pháp cho họ.

Giáo hóa chúng sinh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả không chịu hưởng cảnh vui mình có được, mà giáo hóa chúng sinh không biết mỏi mệt.

Tiếp nhận Chánh Pháp: Pháp Minh Môn này giúp hành giả dứt trừ các phiền não của chúng sinh.

Chứa nhóm phước đức: Pháp Minh Môn này giúp hành giả làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Tu thiền: Pháp Minh Môn này giúp hành giả đầy đủ mười lực.

Tịch định: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thành tựu đầy đủ tam muội của Như Lai.

Nhận thức sáng suốt: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thành tựu trí tuệ một cách viên mãn.

Thực hiện được biện tài vô ngại: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thành tựu được pháp nhãn.

Thực hiện được tất cả các hạnh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thành tựu được Phật nhãn.

Thành tựu tổng trì: Pháp Minh Môn này giúp hành giả khi nghe tất cả Phật Pháp đều có khả năng thọ trì.

Chứng được vô ngại biện tài: Pháp Minh Môn này giúp hành giả làm cho chúng sinh được hoan hỷ.

Thuận nhẫn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả thuận hiệp với tất cả pháp của Chư Phật.

Chứng Vô sinh pháp nhẫn: Pháp Minh Môn này giúp hành giả được Phật thọ ký.

Địa Vị bất thoái chuyển: Pháp Minh Môn này giúp hành giả đầy đủ các pháp của Chư Phật trong quá khứ.

Trí từ một Địa đến mười Địa: Pháp Minh Môn này giúp hành giả được Phật quán đảnh, thành tựu nhất thiết trí.

Địa quán đảnh: Pháp Minh Môn này giúp hành giả từ khi sinh ra cho đến khi xuất gia, thẳng đến thành tựu Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Khi Bồ Tát Hộ Minh nói các pháp phương tiện này rồi, lại bảo tất cả Chư Thiên: Chư Thiên phải biết, một trăm lẻ tám Pháp Minh Môn này lưu lại Cõi Trời, các ông cần phải thọ trì, tâm thường ghi nhớ, chớ nên xao lãng.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần