Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Phạm Hạnh - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

 PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI

PHẨM PHẠM HẠNH  

PHẦN HAI  

Này thiện nam tử! Do thật hành sai khác nên phải có bốn. Nếu lúc thật hành hạnh từ không có hạnh bi, hỷ, xả, vì thế nên có bốn.

Này thiện nam tử! Do vì vô lượng cũng đặng gọi là bốn.

Luận về vô lượng thì có bốn thứ: Có tâm vô lượng, có duyên chẳng tự tại, có tâm vô lượng tự tại, chẳng phải duyên, có tâm vô lượng cũng duyên cũng tự tại, có tâm vô lượng chẳng phải duyên chẳng phải tự tại.

Thế nào là tâm vô lượng có duyên chẳng tự tại?

Duyên nơi vô lượng vô biên chúng sanh mà chẳng đặng chánh định tự tại, dầu đặng chánh định nhưng hoặc đặng hoặc mất.

Thế nào là tâm vô lượng tự tại chẳng phải duyên?

Như duyên cha mẹ, anh em, chị em, muốn làm cho được an vui, chẳng phải là duyên vô lượng.

Thế nào là tâm vô lượng cũng duyên cũng tự tại?

Tức là nói Chư Phật Bồ Tát.

Thế nào tâm vô lượng chẳng phải duyên chẳng tự tại?

Hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng có thể duyên rộng vô lượng chúng sanh cũng chẳng phải tự tại.

Này thiện nam tử! Do nghĩa đây nên gọi là bốn thứ vô lượng, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được, đây là cảnh giới của Chư Phật.

Bốn thứ vô lượng như vậy, hàng Thanh Văn, Duyên Giác dầu gọi là vô lượng, nhưng chỉ chút ít không đáng kể. Chư Phật và Bồ Tát thời đặng gọi là vô lượng vô biên.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Phải lắm! Phải lắm! Thiệt đúng như lời dạy của Phật. Bao nhiêu cảnh giới của Như Lai, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết đến được.

Thế Tôn! Có Bồ Tát nào trụ nơi đại thừa Đại Niết Bàn đặng tâm từ bi mà chẳng phải là tâm đại từ đại bi chăng?

Phật nói: Có! Này thiện nam tử! Bồ Tát nếu đối trong hàng chúng sanh phân biệt ba hạng: Một là người thân yêu, hai là kẻ oán ghét, ba là người không thương không ghét.

Đối trong những người thương yêu lại chia ba hạng: Thượng, trung, hạ. Đối với kẻ oán ghét cũng vậy. Vị Bồ Tát này ở trong hạng thương yêu bậc thượng ban cho sự vui tăng thượng. Nơi trong hạng thân yêu bậc trung, bậc hạ cũng bình đẳng ban cho sự vui tăng thượng.

Ở nơi trong hạng oán ghét bậc thượng cho ít phần vui. Nơi trong kẻ oán ghét bậc trung cho sự vui vừa vừa. Nơi trong hạng oán ghét bậc hạ cho sự vui tăng thượng.

Bồ Tát lần lượt tu tập thêm lên như vậy, ở trong hạng oán ghét bậc thượng ban cho sự vui vừa vừa, trong hạng oán ghét bậc trung, bậc hạ bình đẳng cho sự vui tăng thượng. Lại tu tập thêm nơi những kẻ oán ghét thượng, trung, hạ bình đẳng ban cho sự vui tăng thượng.

Nếu trong hạng oán ghét bậc thượng ban cho sự vui tăng thượng, bấy giờ đặng gọi là thành tựu tâm từ.

Lúc bấy giờ Bồ Tát đối với cha mẹ là kẻ oán ghét bậc thượng tâm được bình đẳng không sai khác.

Này thiện nam tử! Như trên đây gọi là đặng tâm từ chẳng phải tâm đại từ.

Bạch Thế Tôn! Do duyên gì Bồ Tát đặng tâm từ như vậy mà vẫn chẳng đặng gọi là đại từ?

Này thiện nam tử! Bởi vì khó thành nên chẳng gọi đại từ. Do trong vô lượng kiếp thuở quá khứ chứa nhiều phiền não chư A Tu pháp lành, thế nên chẳng có thể ở nơi trong một ngày điều phục được tâm mình.

Này thiện nam tử! Ví như hột đậu đá lúc đã khô lấy dùi ghim trọn không dính được. Phiền não cứng rắn cũng như vậy. Dầu một ngày đêm nhiếp tâm chẳng tán, nhưng khó điều phục được.

Lại như chó nhà chẳng sợ người, còn con nai rừng thấy người sợ chạy. Sân khuể khó trừ như giữ chó nhà, lòng từ dễ mất như nai rừng kia. Thế nên tâm này khó điều phục được. Do nghĩa này nên chẳng gọi là đại từ.

Này thiện nam tử! Ví nhu khắc trên đá lằn chữ còn mãi. Vẽ trên nước thời chóng mất. Sân như khắc trên đá. Các căn lành như vẽ trên nước. Vi thế nên tâm này khó điều phục được.

Như đống lửa lớn chói sáng được lâu. Ánh sáng của điện chớp thoạt có, liền mất. Sân như đống lửa. Lòng từ như ánh sáng chớp. Vì thế nên tâm này khó điều phục được. Do vì nghĩa này nên chẳng gọi là đại từ.

Này thiện nam tử! Bồ Tát trụ bậc Sơ Địa gọi là đại từ.

Tại sao vậy?

Vì người tột hung ác gọi là Nhất xiển đề. Bậc Sơ địa Bồ Tát lúc tu đại thừa nơi hạng Nhất xiển đề tâm không phân biệt chẳng thấy lỗi của họ nên chẳng sanh lòng sân. Do nghĩa này mà đặng gọi là đại từ.

Này thiện nam tử! Vì trừ những sự không lợi ích cho các chúng sanh, đây gọi là đại từ. Muốn cho chúng sanh được vô lượng lợi ích an vui, đây gọi là đại bi.

Đối với các chúng sanh sanh lòng vui mừng đây gọi là đại hỷ. Không thấy có chúng sanh được ủng hộ, đây gọi là đại xả.

Nếu chẳng thấy có ngã, pháp tướng, thân mình, thấy tất cả pháp đều bình đẳng không sai khác, đây gọi là đại xả. Tự rời bỏ sự vui của mình mà đem ban cho người khác, đây gọi là đại xả.

Này thiện nam tử! Chỉ có bốn tâm vô lượng có thể làm cho Bồ Tát được đầy đủ sáu pháp Ba la mật, những công hạnh khác chẳng quyết định được như vậy.

Này thiện nam tử! Bồ Tát trước đặng bốn tâm vô lượng thế gian, vậy sau mới phát tâm vô thượng bồ đề, kế đó mới đặng tâm vô lượng xuất thế. Nhân tâm vô lượng thế gian mà được tâm vô lượng xuất thếdo vì nghĩa này nên gọi là đại vô lượng.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Trừ sự không lợi ích cùng sự lợi ích an vui thiệt không còn có việc gì để làm. Suy nghĩ như vậy thời là hư vọng quán sát không có lợi ích thiết thiệt.

Thế Tôn! Ví như Tỳ Kheo lúc quán bất tịnh thấy y của mình đắp đều trở thành tướng da mà thiệt chẳng phải là da. Những thức uống ăn đều thấy thành tướng dòi trùng mà thiệt chẳng phải dòi trùng. Quán bát canh đậu thành tướng phân dãi mà thiệt chẳng phải phân.

Quán dầu bơ đương ăn thấy như tủy óc mà thiệt chẳng phải óc. Quán xương nát bể dường như bột bún, mà thiệt chẳng phải bột.

Cũng vậy, bốn tâm vô lượng chẳng có thể thiết thực đem sự lợi ích an vui cho chúng sanh. Dầu miệng nói rằng ban vui cho chúng sanh mà thiệt chúng sanh chẳng được vui. Tu quán như vậy chẳng phải là hư vọng ư!

Thế Tôn! Nếu chẳng phải hư vọng mà thiệt ban cho sự vui, cớ sao chúng sanh chẳng nhờ oai lực của Chư Phật Bồ Tát đặng hoàn toàn an vui tất cả.

Còn nếu quả là thiệt chẳng được an vui đó, như lời Phật nói: Ta nhớ thuở trước riêng tu tâm từ, trãi qua bảy phen thành hoại của cõi này chẳng đến sanh trong nhân gian, lúc Thế Giới thành sanh lên Trời Phạm Thiên.

Lúc Thế Giới hoại sanh lên Trời Quang Âm. Khi sanh lên Trời Phạm Thiên ta có oai thế tự tại tôn quí hơn hết trong ngàn Cõi Phạm Thiên gọi là Đại Phạm Vương.

Nếu các chúng sanh đối với ta đều tưởng là bậc tôn thượng thời được làm Vua Cõi Trời Đao Lợi ba mươi sáu lần. Làm Vua Chuyển Luân vô lượng trăm ngàn lần. Riêng tu lòng từ bèn đặng phước báu Cõi Trời Cõi người như vậy.

Nếu chẳng thiệt được lợi ích làm sao hiệp với nghĩa này?

Phật nói: Lành thay! Lành thay!

Này thiện nam tử! Ông thiệt là dũng mãnh không e sợ.

Phật liền vì Ca Diếp Bồ Tát mà nói kệ rằng: 

Đối với một chúng sanh,

Chẳng sanh lòng giận hờn,

Mà muốn ban cho vui,

Đây gọi là từ thiện.

Trong tất cả chúng sanh,

Nếu sanh được lòng bi,

Gọi là thành chủng tánh,

Đặng phước báo vô lượng.

Giả sử tiên ngũ thông,

Đông khắp mặt đất này,

Có Vua chúa tự tại,

Dâng cấp đủ đồ dùng: 

Voi, ngựa, các vật dụng,

Thí cho Tiên được phước,

Chẳng bằng tu lòng từ,

Trong một phần mười sáu.

Này thiện nam tử! Luận về người tu lòng từ thiệt chẳng phải vọng tưởng, mà chắc chắn là chân thật. Nếu là lòng từ của Thanh Văn, Duyên Giác thời gọi là hư vọng. Chư Phật Bồ Tát lòng từ chân thật chẳng hư vọng.

Do đâu mà biết như vậy?

Này thiện nam tử! Bồ Tát tu hành Đại Niết Bàn. Quán đất làm vàng, quán vàng làm đất, quán mặt đất thành tướng nước, quán mặt nước thành tướng đất, nước quán thành lửa, lửa quán thành nước, đất quán thành gió, gió quán thành đất, tùy ý thành tựu không có hư vọng.

Quán chúng sanh thiệt thành chẳng phải chúng sanh, quán chẳng phải chúng sanh thành chúng sanh thiệt, đều tùy ý mà thành không có hư vọng.

Này thiện nam tử! Nên biết bốn tâm vô lượng của Bồ Tát là sự tư duy chân thật chẳng phải không chân thật.

Này thiện nam tử! Thế nào gọi là tư duy chân thật?

Do vì có thể dứt trừ các phiền não vậy. Luận về tu lòng từ có thể dứt được tham dục, tu lòng bi có thể dứt được sân khuể. Tu lòng hỷ có thể dứt được sự chẳng vui vẻ. Tu lòng xả có thể dứt được tham dục, sân khuể và tướng chúng sanh. Vì thế nên gọi là tư duy chân thật.

Này thiện nam tử! Bốn tâm vô lượng của Bồ Tát có thể làm cội gốc cho tất cả hạnh lành. Bồ Tát nếu chẳng thấy được chúng sanh nghèo cùng thời không duyên để sanh lòng từ. Nếu lòng từ chẳng sanh thời không thể khởi tâm huệ thí.

Do nhân duyên huệ thí làm cho chúng sanh đặng an vui. Ban cho những đồ uống ăn, xe cộ, y phục, hoa hương, giường ghế, nhà cửa, đèn đuốc.

Lúc ban cho như vậy, lòng cởi mở chẳng sanh niệm tham đắm, quyết định hồi hướng Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Lúc đó tâm của Bồ Tát không dừng ở chỗ nào, dứt hẳn vọng tưởng, chẳng kẹt nơi sợ sệt, danh dự, tài lợi, chẳng cầu quả báo vui sướng Cõi Trời Cõi người, chẳng kiêu mạn, chẳng trông người trả ơn, chẳng vì phỉnh người mà làm việc bố thí, chẳng cầu giàu sang.

Phàm lúc làm việc bố thí, chẳng thấy người thọ là trì giới hay phá giới, là phước điền hay chẳng phải phước điền, là hàng tri thức hay chẳng phải tri thức, lúc bố thí cũng chẳng thấy là căn khí hay chẳng phải căn khí, chẳng lựa ngày giờ, chẳng chọn chỗ nơi, cũng chẳng tính là lúc được mùa hay đói kém, chẳng thấy nhân quả chẳng phân biệt là chúng sanh hay chẳng phải chúng sanh, là phước hay chẳng phải phước.

Dầu lại chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng của cải nhẫn đến chẳng thấy nhân tu cùng quả báo, mà luôn luôn làm việc bố thí không ngừng.

Này thiện nam tử! Bồ Tát nếu thấy người lãnh thọ là trì giới hay phá giới v.v… nhẫn đến thấy có quả báo thời chẳng thể bố thí trọn vẹn. Nếu chẳng bố thí trọn vẹn thời không thể đầy đủ Đàn Ba la mật. Nếu chẳng đầy đủ đàn Ba la mật thời không thể thành Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Này thiện nam tử! Ví như có người thân bị trúng tên độc. Quyến thuộc của người đó vì muốn cho người đó được an ổn liền mời lương y đến để nhổ tên độc.

Người đó nói đừng động đến chờ tôi quan sát coi mũi tên độc này từ phương nào bay đến, của ai bắn, người bắn là dòng nào. Là Sát Đế Lợi hay Bà La Môn, là Tỳ Xá hay Thủ Đà. Nghiệm coi mũi tên làm bằng cây, bằng tre hay bằng gỗ liễu.

Mũi sắt từ lò nào rèn, cứng hay mềm, đuôi lông và lông cánh chim gì, chim quạ hay kên kên. Chất độc tẩm trong mũi tên tự nhiên mà có hay chế ra, là độc của loài người hay độc của loài rắn. Người ngu si đó chưa biết được mà đã chết.

Này thiện nam tử! Cũng vậy, Bồ Tát nếu lúc làm việc bố thí phân biệt người thọ là trì giới hay phá giới, nhẫn đến phân biệt quả báo, thời chẳng bố thí trọn vẹn.

Nếu chẳng bố thí trọn vẹn thời chẳng đầy đủ Đàn Ba la mật. Nếu chẳng đầy đủ Đàn Ba la mật thời chẳng đặng thành Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Này thiện nam tử! Lúc làm việc bố thí Bồ Tát đối với chúng sanh lòng từ bình đẳng tưởng như con mình. Lại lúc làm việc bố thí, đối với các chúng sanh Bồ Tát sanh lòng thương xót như cha mẹ săn sóc đứa con đang đau ốm. Lúc làm việc bố thí, lòng Bồ Tát vui mừng như cha mẹ thấy con lành mạnh. Sau khi đã bố thí lòng Bồ Tát buông bỏ như cha mẹ thấy con khôn lớn đã có thể tự sanh sống.

Vị Bồ Tát này ở trong tâm từ, lúc bố thí thức ăn thường nguyện như vậy: Nay những đồ ăn của ta bố thí đều cho chung tất cả chúng sanh, do nhân duyên này làm cho chúng sanh đặng có trí huệ lớn, siêng tu hồi hướng đại thừa vô thượng.

Nguyện các chúng sanh đặng có trí lành chẳng cầu báo Thanh Văn và Duyên Giác. Nguyện các chúng sanh đặng món ăn pháp hỷ chẳng cầu món ăn ái nhiễm.

Nguyện các chúng sanh đều đặng món ăn bát nhã Ba la mật, đều được đầy đủ phương tiện vô ngại, thêm lớn căn lành.

Nguyện các chúng sanh hiểu thấu tướng vô đắc, thân vô ngại dường như hư không.

Nguyện các chúng sanh thường làm người lãnh thọ, thương xót tất cả mọi loài mà làm phước điền cho chúng.

Này thiện nam tử! Lúc tu lòng từ khi đem thức ăn bố thí nên phải phát những điều nguyện như trên.

Này thiện nam tử! Lúc bố thí các thức uống, Bồ Tát ở trong lòng từ nên nguyện rằng: Những thức uống bố thí hôm nay ta đều cho tất cả chúng sanh chung hưởng, do nhân duyên này làm cho chúng sanh đến sông đại thừa uống nước bát vị mau lên đường vô thượng bồ đề, rời khỏi sự khô khát của Thanh Văn, Duyên Giác mà khát ngưỡng cầu Phật thừa vô thượng, dứt khát phiền não mà khát ngưỡng pháp vị.

Rời niệm ưa sanh tử mà ưa thích đại thừa Đại Niết Bàn đầy đủ pháp thân đặng các tam muội vào nơi biển lớn trí huệ rất sâu.

Nguyện các chúng sanh đặng vị Cam Lồ trí giác xuất thế ly dục tịch tịnh. Nguyện các chúng sanh đầy đủ vô lượng trăm ngàn pháp vị. Đủ pháp vị rồi đặng thấy Phật Tánh. Thấy Phật Tánh rồi có thể rưới mưa pháp. Rưới mưa pháp rồi Phật Tánh trùm khắp dường như hư không.

Lại làm cho vô lượng chúng sanh khác đặng pháp vị duy nhất tức là đại thừa, chẳng phải vị sai biệt Thanh Văn và Duyên Giác. Nguyện các chúng sanh chỉ cầu pháp vị Phật Tánh vô ngại, chẳng cầu những vị khác.

Này thiện nam tử! Lúc bố thí các thức uống trong tâm từ Bồ Tát phải phát những nguyện như vậy.

Này thiện nam tử! Lúc bố thí xe cộ Bồ Tát ở trong tâm từ nên nguyện rằng: Những đồ của tôi bố thí hôm nay đều cho chúng sanh chung hưởng. Do nhân duyên này khiến tất cả chúng sanh trọn nên đại thừa, trụ nơi đại thừa, bất thối đại thừa, bất động chuyển thừa, Kim Cang tòa thừa. Chẳng cầu thừa Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ hồi hướng nơi Phật thừa vô thượng. Bồ Tát ở trong tâm từ lúc bố thí xe cộ nên phải phát nguyện như vậy.

Này thiện nam tử! Lúc bố thí y phục Bồ Tát ở trong tâm từ nên nguyện rằng: Những đồ bố thí của ta hôm nay đều cho tất cả chúng sanh chung hưởng, do nhân duyên này làm cho chúng sanh đặng y phục tàm quý. Pháp Giới che thân xé rách y phục kiến chấp.

Y phục rời thân một thước sáu tấc, đặng thân sắc vàng chạm xúc êm dịu, màu sắc nhuần láng, da thứa mịn màng, chiếu sáng vô lượng: Không sắc, rời nơi sắc. Nguyện các chúng sanh tất cả đều đặng thân không sắc vượt tất cả sắc, đặng chứng nhập Đại Niết Bàn không sắc. Lúc bố thí y phục Bồ Tát ở trong tâm từ nên phát nguyện như vậy.

Này thiện nam tử! Lúc bố thí hoa hương, hương thoa, hương bột, các hương thơm, trong tâm từ Bồ Tát nên nguyện rằng: Những đồ bố thí của ta hôm nay đều cho tất cả chúng sanh chung hưởng. Do nhân duyên này làm cho tất cả chúng sanh đều được bông tam muội của Phật, tràng hoa thất giác chi tốt đẹp vấn trên đầu của chúng. 

Nguyện các chúng sanh thân hình xinh đẹp như trăng tròn, các màu sắc được thấy diệu mầu đệ nhất.

Nguyện các chúng sanh đều thành tướng trăm phước trang nghiêm. Nguyện các chúng sanh tùy ý đặng thấy màu sắc vừa ý.

Nguyện các chúng sanh thường gặp bạn lành đặng hương vô ngại rời những hôi nhơ.

Nguyện các chúng sanh, đầy đủ căn lành trân bảo vô thượng.

Nguyện các chúng sanh nhìn nhau hòa vui không có. Lo khổ, đầy đủ hạnh lành.

Nguyện các chúng sanh trọn đủ giới hương.

Nguyện các chúng sanh trì giới vô ngại mùi thơm ngạt ngào khắp cả mười phương.

Nguyện các chúng sanh, đặng giới bền chắc, đặng giới không nghi hối đặng giới nhất thế trí, rời các sự phá giới, đều đặng giới không, giới chưa từng có, giới vô sư, giới vô tác, giới không ô nhiễm, giới hoàn toàn, giới rốt ráo, giới bình đẳng. Lấy hương xoa nơi thân xem đồng như chém đâm không có ưa cùng ghét.

Nguyện các chúng sanh đặng giới vô thượng, giới đại thừa, chẳng phải giới tiểu thừa.

Nguyện các chúng sanh đều đặng đầy đủ Thi Ba la mật, như Chư Phật thành tựu Giới Độ.

Nguyện các chúng sanh đều được huân tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.

Nguyện các chúng sanh đều đặng trọn nên hoa sen vi diệu Đại Niết Bàn. Hoa đó mùi thơm khắp cả mười phương.

Nguyện các chúng sanh thuần ăn cơm thơm Vô Thượng Đại Thừa Đại Niết Bàn. Như con ong hút hoa chỉ lấy vị mật.

Nguyện các chúng sanh đều đặng thành tựu thân vô lượng công đức.

Lúc bố thí hoa hương Bồ Tát ở trong tâm từ nên phải phát nguyện như vậy.

Này thiện nam tử! Lúc bố thí giường chiếu, Bồ Tát ở trong tâm từ nên phát nguyện rằng: Những giường chiếu của tôi hôm nay cho tất cả chúng sanh chung hưởng.

Do nhân duyên này làm cho chúng sanh đặng giường nằm của bậc Trời ở trong các Trời, đặng trí huệ lớn ngồi Tứ Thiền, nằm ở nơi giường của Bồ Tát, chẳng nằm nơi giường của Thanh Văn, Bích Chi Phật là giường nằm thô ác.

Nguyện cho chúng sanh đặng giường an lạc, lìa giường sanh tử thành tựu giường Sư Tử Đại Niết Bàn.

Nguyện cho các chúng sanh ngồi trên giường này rồi, lại vì vô lượng chúng sanh khác thị hiện thần thông Sư Tử du hí.

Nguyện các chúng sanh trụ trong cung điện lớn đại thừa này vì các chúng sanh khác diễn nói Phật Tánh.

Nguyện các chúng sanh ngồi trên giường vô thượng chẳng bị pháp thế gian chi phối.

Nguyện các chúng sanh đặng giường nhẫn nhục, rời hẳn sanh tử đói khát lạnh lẽo.

Nguyện các chúng sanh đặng giường vô úy lìa hẳn tất cả giặc phiền não.

Nguyện các chúng sanh đặng giường thanh tịnh chuyên cầu đạo Vô Thượng Chánh Chân.

Nguyện các chúng sanh đặng giường pháp lành thường được bạn lành ủng hộ.

Nguyện các chúng sanh đặng giường nằm hông bên hữu, nương nơi pháp của Chư Phật đã làm.

Này thiện nam tử! Bồ Tát lúc bố thí giường chiếu ở trong tâm từ nên phải phát nguyện như vậy.

Này thiện nam tử! Bồ Tát lúc bố thí nhà cửa ở trong tâm từ thường phát nguyện rằng: Nhà cửa của tôi bố thí hôm nay đều cho tất cả chúng sanh chung hưởng. Do nhân duyên này làm cho các chúng sanh ở nhà đại thừa, tu hành những hạnh của thiện hữu làm, thật hành hạnh đại bi, hạnh Lục Độ, hạnh đại Chánh Giác, đạo hạnh của tất cả Bồ Tát làm, hạnh rộng lớn vô biên như hư không.

Nguyện các chúng sanh đều đặng chánh niệm, xa lìa niệm ác.

Nguyện các chúng sanh đều đặng an trụ thường, lạc, ngã, tịnh, lìa hẳn bốn thứ điên đảo.

Nguyện các chúng sanh thảy đều thọ trì nhà xuất thế.

Nguyện các chúng sanh đều là căn khí vô thượng nhất thiết trí.

Nguyện các chúng sanh đều đặng vào nơi ngôi nhà cam lồ.

Nguyện các chúng sanh trong tất cả tâm thường vào ngôi nhà Niết Bàn.

Nguyện các chúng sanh nơi đời vị lai thường ở cung điện của Bồ Tát ở. Bồ Tát lúc bố thí nhà cửa ở trong tâm từ thường nên phát nguyện như vậy.

*** 

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần