Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM HAI MƯƠI BA
PHẨM SƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT
PHẦN BA
Phật nói: Này Phạm Vương!
Lắng nghe! Lắng nghe! Nay Phật sẽ vì tất cả chúng sanh mở cửa Cam Lộ.
Ở thành Ba La Nại, chuyển chánh pháp luân, tuyên nói trung đạo, vì tất cả chúng sanh chẳng phá trừ các kiết sử, chẳng phải là không thể trừ, chẳng phải phá chẳng phải là chẳng phá, nên gọi là trung đạo.
Chẳng độ chúng sanh, chẳng phải là không độ được nên gọi là trung đạo.
Chẳng phải tất cả thành tựu, chẳng phải là chẳng thành tựu nên gọi là trung đạo.
Phàm có lời nói dạy ra, chẳng tự nói là thấy, chẳng nói là đệ tử, nên gọi là trung đạo.
Sông Hằng chẳng vì lợi, chẳng phải là không được quả lành nên gọi là trung đạo.
Lời Phật là chánh ngữ, thiệt ngữ, thời ngữ, chân ngữ, chẳng hư vọng, là vi diệu đệ nhất.
Đây gọi là nghe thấy.
Này thiện nam tử! Tâm tướng của Như Lai thiệt ra không thể thấy. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn được thấy Như Lai, phải nên y theo hai nhân duyên như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Như trước kia nói điều dụ trái Am Ma La bốn hạng người v.v… có hạng người việc làm kỹ mà tâm chẳng chánh thiệt. có hạng người tâm kỹ mà việc làm chẳng chánh thiệt. có hạng người tâm kỹ mà việc làm cũng chánh thiệt. Có hạng người tâm chẳng kỹ việc làm cũng chẳng chánh thiệt.
Thế Tôn! Hai hạng đầu, làm thế nào biết được?
Như lời Phật nói, dầu y theo hai nhân duyên ấy, cũng chẳng thể biết được.
Phật nói: Lành thay! Lành thay!
Này thiện nam tử! Điều dụ trái Am Ma La, hai hạng người này thiệt khó biết được. Vì khó biết, nên trong Kinh Phật nói phải cùng họ ở chung. Ở chung nếu chẳng biết được thời phải ở lâu. Ở lâu nếu chẳng biết được thời nên dùng trí huệ. Dùng trí mà chẳng biết thời nên quán sát suy gẫm kỹ. Do quán sát suy gẫm thời biết là trì giới cùng phá giới.
Này thiện nam tử! Đầy đủ bốn điều: Ở chung, ở lâu, trí huệ, quán sát rồi sau mới biết là trì giới cùng phá giới.
Này thiện nam tử! Giới có hai thứ, trì giới cũng hai: Một là giới cứu cánh, hai là giới chẳng cứu cánh. Có người do nhân duyên nên thọ trì cấm giới, người trí phải quán sát người này trì giới là vì lợi dưỡng hay là vì cứu cánh. Giới của Đức Như Lai không có nhân duyên, vì thế nên được gọi là giới cứu cánh.
Do nghĩa này nên Bồ Tát dầu bị chúng sanh ác làm tổn hại mà chẳng có lòng giận hờn. Do đây nên Như Lai đặng gọi là thành tựu trì giới cứu cánh.
Này thiện nam tử! Xưa kia có một lúc ta cùng Xá Lợi Phất và năm trăm đệ tử đồng ở nơi nước Ma Dà Đà trong thành Chiêm Bà. Có thợ săn đuổi theo một con bồ câu.
Bồ câu này sợ hải đến nơi bóng của Xá Lợi Phất vẫn còn run sợ, nó chạy đến trong bóng của ta thời thân tâm an ổn hết kinh sợ. Do đây nên biết Đức Như Lai trì giới rốt ráo nhẫn đến bóng của thân còn có năng lực như vậy.
Này thiện nam tử! Giới chẳng cứu cánh còn chẳng được quả Thanh Văn, Duyên Giác, huống là có thể được quả vô thượng bồ đề.
Lại có hai thứ: Một là vì lợi dưỡng, hai là vì chánh pháp. Vì lợi dưỡng mà thọ trì cấm giới, nên biết giới này chẳng thấy được Phật Tánh cùng Như Lai. Dầu nghe Phật Tánh và danh tự Như Lai nhưng vẫn chẳng được gọi là nghe thấy.
Nếu vì chánh pháp mà thọ trì cấm giới, nên biết giới này có thể thấy được Phật Tánh cùng Như Lai, đây gọi là con mắt thấy cũng gọi là nghe thấy.
Lại có hai thứ: Một là căn sâu khó lay khó nhổ, hai là căn cạn dễ động. Nếu có thể tu tập không, vô tướng, vô nguyện, đây gọi là căn sâu. Nếu chẳng tu tập ba môn tam muội này, hoặc dầu tu tập mà vì hai mươi lăm cõi, đây gọi là căn cạn.
Lại có hai thứ: Một là vì thân mình, hai là vì chúng sanh. Người vì chúng sanh thời có thể thấy Phật Tánh và Như Lai.
Người trì giới lại có hai hạng, một là tánh tự hay là trì giới, hai là cần phải người khác dạy bảo nếu đã thọ giới trải qua vô lượng đời không sai phạm hoặc ở nhằm nước ác, gặp bạn ác, thời kỳ ác, đời ác, gặp pháp ác gian tà, ở chung với kẻ tà kiến, dầu như vậy, nhưng người này vẫn giữ gìn giới pháp như cũ không có hủy phạm, đây gọi là tánh tự hay trì giới.
Nếu là người gặp Sư Tăng Bạch Tứ Yết Ma mà đắc giới, thời cần phải nương nhờ Hòa Thượng, các Sư Tăng, bạn lành dạy bảo, mới biết oai nghi cử chỉ đúng pháp, đây gọi là hạng người cần nhờ sự dạy bảo. Người tánh tự hay trì giới thời con mắt thấy Phật Tánh và thấy Như Lai, cùng gọi là nghe thấy.
Giới lại có hai: Một là giới Thanh Văn, hai là giới Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đặng vô thượng bồ đề, đây gọi là giới Bồ Tát. Nếu quán bạch cốt nhẫn đến chứng quả A La Hán đây gọi là giới Thanh Văn.
Nếu có người trì giới Thanh Văn, nên biết rằng người này chẳng thấy Phật Tánh và Như Lai. Nếu có người trì giới Bồ Tát, nên biết rằng người này được vô thượng bồ đề, thấy được Phật Tánh và Như Lai Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà thọ trì cấm giới?
Phật nói: Này thiện nam tử! Vì tâm chẳng hối hận.
Cớ gì chẳng hối hận?
Vì hưởng thọ an lạc.
Cớ gì hưởng thọ an lạc?
Vì xa lìa.
Cớ gì xa lìa?
Vì an ổn.
Cớ gì an ổn?
Vì thiền định.
Cớ gì thiền định?
Vì tri kiến chân thật.
Cớ gì tri kiến chân thật?
Vì thấy những lỗi họa của sanh tử.
Cớ gì thấy lỗi sanh tử?
Vì tâm chẳng tham đắm.
Cớ gì tâm chẳng tham đắm?
Vì được giải thoát.
Cớ gì được giải thoát?
Vì được vô thượng Đại Niết Bàn.
Cớ gì được Đại Niết Bàn?
Vì được thường, lạc, ngã, tịnh.
Cớ gì được thường, lạc, ngã, tịnh?
Vì được bất sanh bất diệt.
Cớ gì được bất sanh bất diệt?
Vì thấy Phật Tánh. Do đây nên Bồ Tát tánh tự hay trì giới cứu cánh.
Này thiện nam tử! Tỳ Kheo trì giới dầu chẳng phát nguyện cầu tâm chẳng hối hận, mà tự nhiên được, vì pháp tánh như vậy.
Dầu chẳng cầu vui, xa lìa, an ổn, tri kiến chân thật, thấy lỗi sanh tử, tâm chẳng tham đắm, giải thoát, Niết Bàn, thường, lạc, ngã, tịnh, bất sanh, bất diệt, cùng thấy Phật Tánh, nhưng tự nhiên được tất cả, vì pháp tánh như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Nếu do trì giới mà đặng quả chẳng ăn năn, nhân nơi giải thoát mà đặng quả Niết Bàn, thời giới là không nhân, Niết Bàn là không quả. Giới nếu không nhân thời gọi là thường, Niết Bàn có nhân thời là vô thường. Nếu như vậy, thời Niết Bàn là trước không mà nay có. Nếu trước không mà nay có thời là vô thường, như thắp ngọn đèn.
Niết Bàn nếu như vậy thời thế nào được gọi là ngã, lạc, tịnh ư?
Phật nói: Này thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Ông đã từng ở nơi vô lượng Chư Phật trồng những thiện căn, mới có thể hỏi Như Lai thâm nghĩa như vậy?
Này thiện nam tử! Ông chẳng mất bổn niệm mới hỏi như vậy ư?
Ta nhớ thuở xưa, cách đây vô lượng kiếp, nơi thành Ba La Nại có Đức Phật ra đời hiệu là Thiện Đức. Đức Phật đó diễn nói Kinh Đại Niết Bàn này, trong ba ức năm. Lúc đó ta cùng ông đều ở trong Pháp Hội đó. Ta đem việc này để hỏi Đức Phật Thiện Đức. Lúc ấy Đức Phật Thiện Đức vì chúng sanh mà nhập chánh định nên chưa đáp nghĩa này.
Lành thay! Ông bèn có thể nhớ được việc cũ.
Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói.
Này thiện nam tử! Giới cũng có nhân, chính là nghe chánh pháp. Nghe chánh pháp cũng có nhân, chính là gần bạn lành. Gần bạn lành cũng có nhân, chính là tín tâm.
Người có tín tâm cũng có nhân, chính là nghe pháp và tư duy ý nghĩa, tín tâm nhân nơi nghe pháp, nghe pháp nhân nơi tín tâm, hai pháp này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả, mà cũng là quả quả. Như Ni Kiền Tử dựng ba cây tréo để bình tròn, làm nhân quả cho nhau chẳng rời được.
Này thiện nam tử! Như vô minh, duyên hành, hành duyên vô minh, vô minh và hành này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả. Sanh duyên lão tử, lão tử duyên sanh, sanh cùng lão tử này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Này thiện nam tử! Pháp sanh có thể sanh ra pháp mà chẳng thể tự sanh, vì chẳng tự sanh nên do sanh mà sanh sanh. Sanh sanh chẳng tự sanh lại nhờ sanh mà sanh, vì thế nên hai thứ sanh này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Này thiện nam tử! Tín tâm và nghe pháp cũng như vậy. Là quả mà chẳng phải nhân chính là Đại Niết Bàn.
Cớ gì gọi là quả?
Vì là quả vô thượng, là quả Sa Môn, là quả Bà La Môn, vì dứt sanh tử, vì phá phiền não, do đây nên gọi là quả. Vì bị các phiền não quở trách nên Niết Bàn gọi là quả. Phiền não gọi là lỗi lầm trên lỗi lầm.
Này thiện nam tử! Niết Bàn không có nhân mà thể của nó là quả. Vì nó không sanh diệt, vì không chỗ tạo tác, vì chẳng phải hữu vi, vì là vô vi, vì thường chẳng biến đổi, vì không chỗ nói, vì không thỉ chung.
Này thiện nam tử! Nếu Niết Bàn có nhân thời chẳng đặng gọi là Niết Bàn. Bàn là nói nhân, Niết là nói không, không có nhân nên gọi là Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Như lời Phật nói Niết Bàn là không nhân. Lời này không đúng.
Nếu nói là không thời hiệp sáu nghĩa:
Một là tất cánh không nên gọi là không, như tất cả pháp không có ngã không có ngã sở.
Hai là có lúc không nên gọi là không, như người đời nói sông ao không có nước, không có mặt trời, mặt trăng.
Ba là vì ít nên nói là không, như người đời nói trong đồ ăn ít mặn thời gọi là không mặn, nước ngọt ít ngọt thời gọi là không ngọt.
Bốn là không lãnh thọ nên gọi rằng không, như Chiên Đà La không thể thọ trì pháp Bà La Môn, nên gọi là không Bà La Môn.
Năm là vì thọ pháp ác nên gọi là không, như người đời nói người thọ pháp ác chẳng gọi là Sa Môn, chẳng gọi là Bà La Môn, nên nói không có Sa Môn và Bà La Môn.
Sáu là vì đối đãi mà gọi là không, hư không trắng gọi đó là đen, không sáng gọi đó là vô minh.
Thế Tôn! Niết Bàn cũng như vậy, có lúc không nhân nên gọi là Niết Bàn.
Phật nói: Này thiện nam tử! Nay ông nói sáu nghĩa như vậy, cớ sao ông không dẫn rốt ráo không để dụ cho Niết Bàn, mà ông lại lấy có lúc không, để lệ cho Niết Bàn như vậy.
Này thiện nam tử! Thể của Niết Bàn rốt ráo không nhân, cũng hư không ngã và không ngã sở.
Này thiện nam tử! Pháp thế gian cùng Niết Bàn trọn chẳng tương đối nhau, vì thế nên sáu việc của ông dẫn ra chẳng làm ví dụ được.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp đều không có ngã, mà Niết Bàn này thiệt không có ngã, do nghĩa này nên Niết Bàn không nhân mà thể của nó là quả. Là nhân mà chẳng phải qủa gọi là Phật Tánh, vì chẳng phải do nhân sanh, vì chẳng phải quả của Sa Môn nên gọi là chẳng phải quả. Cớ gì gọi là nhân, vì là liễu nhân vậy.
Này thiện nam tử! Nhân có hai thứ: Một là sanh nhân, hai là liễu nhân. Hay sanh ra pháp thời gọi là sanh nhân. Đèn hay chiếu rõ đồ vật, nên gọi là liễu nhân. Phiền não kiết sử thời gọi là sanh nhân. Cha mẹ của chúng sanh thời gọi là liễu nhân.
Như hột lúa v.v… thời gọi là sanh nhân. Đất nước phân tro v.v… thời gọi là liễu nhân. Lại có sanh nhân, chính là sáu môn Ba la mật, vô thượng bồ đề. Lại có liễu nhân, chính là Phật Tánh vô thượng bồ đề.
Lại có liễu nhân, chính là sáu môn Ba la mật, Phật Tánh. Lại có sanh nhân, chính là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Vô Thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhân, chính là Bát Chánh Đạo vô thượng bồ đề. Lại có sanh nhân, chính là tín tâm sáu môn Ba la mật.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Như Phật nói: Thấy Như Lai và Phật Tánh, ý nghĩa đó như thế nào?
Bạch Thế Tôn! Thân Như Lai không có tướng mạo, chẳng phải dài ngắn trắng đen, không có phương sở, chẳng ở trong tam giới, chẳng phải tướng hữu vi, chẳng phải nhãn thức thấy được, như thế thời làm sao có thể thấy được, Phật Tánh cũng vậy.
Phật nói: Này thiện nam tử! Thân của Phật có hai thứ: Một là thường, hai là vô thường. Thân vô thường chính là vì muốn độ thoát tất cả chúng sanh nên phương tiện thị hiện, thân này con mắt thấy được. Thân thường trụ chính là thân giải thoát của Như Lai, thân này cũng gọi là con mắt thấy, cũng gọi là nghe thấy.
Phật Tánh cũng có hai thứ: Một là có thể thấy, hai là chẳng thể thấy. Có thể thấy là nói bậc Thập Trụ Bồ Tát và Chư Phật. Chẳng thể thấy là nói tất cả chúng sanh. Con mắt có thấy, chính là Thập Trụ Bồ Tát và Chư Phật con mắt ngó thấy Phật Tánh của chúng sanh. Có nghe thấy, là tất cả chúng sanh và Cửu Trụ Bồ Tát nghe có Phật Tánh.
Thân của Phật lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là thân giải thoát của Như Lai. Là chẳng phải sắc vì Đức Như Lai đã dứt hẳn sắc căn.
Phật Tánh lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là vô thượng bồ đề. Là chẳng phải sắc chính là phàm phu nhẫn đến Thập Trụ Bồ Tát. Vì Thập Trụ Bồ Tát chẳng thấy rõ ràng nên gọi là chẳng phải sắc.
Phật Tánh lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là Chư Phật và Bồ Tát. Là chẳng phải sắc chính là tất cả chúng sanh. Là sắc gọi rằng con mắt thấy. Là phi sắc gọi rằng nghe thấy.
Phật Tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, dầu chẳng phải trong ngoài nhưng chẳng phải là hư mất, nên gọi rằng chúng sanh đều có Phật Tánh.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Như Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh như trong sữa có chất lạc. Kim Cang lực sĩ, Chư Phật, Phật Tánh như đề hồ trong sạch.
Cớ sao Đức Như Lai nói rằng Phật Tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài?
Phật nói: Này thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói rằng trong sữa có chất lạc. Vì chất lạc từ sữa sanh ra nên nói rằng có chất lạc.
Thế Tôn! Tất cả sanh pháp đều có thời tiết.
Này thiện nam tử! Lúc là sửa thời không có chất lạc, củng không có các chất sanh tô, thục tô, đề hồ. Tất cả chúng sanh cũng gọi đó là sửa. Vì thế nên ta nói rằng trong sửa không có chất lạc. Như trong sửa đồng thời có chất lạc, cớ sao chẳng đồng thời có hai thứ tên.
Như người có hai nghề thời gọi rằng thợ vàng sắt. Lúc là chất lạc không có sửa cũng hư không có sanh tô, thục tô và đề hồ. Chúng sanh cũng gọi là chất lạc chẳng phải sửa, sanh tô thục tô và đề hồ.
Này thiện nam tử! Nhân có hai thứ: Một là chánh nhân, hai là duyên nhân. Chánh nhân là như sửa sanh chất lạc. Duyên nhân là như ủ ấm. Vì từ sửa sanh nên gọi là trong sửa có tánh chất lạc.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Nếu sửa không tánh chất lạc, trong sừng bò cũng không có, cớ sao chẳng từ trong sừng bò mà sanh?
Này thiện nam tử! Sừng bò cũng sanh chất lạc.
Vì ta nói rằng duyên nhân có hai thứ: Một là ủ, hai là ấm. Tánh sừng bò là ấm nên cũng có thể làm duyên sanh chất lạc.
Bạch Thế Tôn! Nếu sừng bò có thể sanh chất lạc, người tìm chất lạc cớ sao lại tìm nơi sửa mà chẳng dùng sừng.
Này thiện nam tử! Do cớ đó nên ta nói có chánh nhân có duyên nhân.
Thế Tôn! Nếu trong sửa vốn không tánh của chất lạc nay mới có, trong sửa vốn không tánh cây Am Ma La, cớ sao chẳng sanh cây Am Ma La, vì trong sửa cả hai tánh đều không.
Này thiện nam tử! Sửa cũng có thể sanh cây Am Ma La, nếu dùng sửa tưới trong nột đêm, cây Am Ma La cao thêm năm thước. Do nghĩa này nên ta nói có hai thứ nhân.
Này thiện nam tử! Nếu tất cả pháp chỉ có một nhân sanh ra thời mới có thể vấn nạn như lời của ông vừa nói.
Này thiện nam tử! Như Tứ Đại làm nhân duyên có ra tất cả sắc pháp. Nhưng sắc pháp mỗi mỗi riêng khác chẳng đồng nhau, do nghĩa này nên trong sửa chẳng sanh cây Am Ma La.
Bạch Thế Tôn! Như Phật nói có hai nhân là chánh nhân và duyên nhân, Phật Tánh của chúng sanh thuộc về nhân nào?
Này thiện nam tử! Phật Tánh của chúng sanh cũng hai thứ nhân: Một là chánh nhân, hai là duyên nhân. Chánh nhân đó chính là các chúng sanh. Duyên nhân đó chính là sáu môn Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi quyết định biết rằng trong sửa có tánh chất lạc. Vì tôi thấy trong đời những người tìm chất lạc chỉ lấy nơi trong sửa mà trọn chẳng lấy trong những vật khác. Do đây nên biết rằng trong sửa có tánh của chất lạc.
Này thiện nam tử! Như lời của ông hỏi, theo nghĩa thời chẳng đúng. Ví như có người muốn soi thấy hình bóng của mặt mình bèn lấy con dao sáng.
Bạch Thế Tôn! Do nghĩa này nên trong sửa có tánh của chất lạc, vì nếu trong dao không có hình bóng của gương mặt, cớ gì lại lấy dao.
Này thiện nam tử! Nếu trong con dao này quyết định có hình bóng của gương mặt, cớ sao lại điên đảo: Dựng đứng thời thấy hình dài, cầm ngang thời thấy bóng rộng.
Nếu là mặt của mình cớ sao lại thấy dài?
Nếu là mặt người khác thời đâu được gọi rằng là hình bóng của mặt mình.
Nếu nhân mặt mình mà thấy mặt người khác, cớ sao chẳng thấy bóng của lừa của ngựa?
Bạch Thế Tôn! Nhãn quang đến nơi kia nên thấy bóng mặt.
Này thiện nam tử! Thật ra nhãn quang này chẳng đến nơi kia, vì xa gần đồng một thời đều được thấy cả, vì chẳng thấy những vật ở chặng giữa vậy.
Nhãn quang nếu đến nơi kia mà được thấy, thời tất cả chúng sanh đều thấy lửa cớ sao chẳng bị cháy?
Như người thấy vật trắng ở xa thời chẳng nên nghi rằng đó là chim hạc?
Là phan?
Là người?
Là cây?
Nếu nhãn quang đến nơi kia thế nào thấy được vật ở trong bình thủy tinh, cá cùng đá ở dưới vực sâu. Nếu nhãn quang chẳng đến mà thấy cớ sao thấy được vật trong bình thủy tinh, mà chẳng thấy được vật ở ngoài vách. Do lẽ này nên nếu nói rằng nhãn quang đến nơi kia mà được thấy đó là không đúng.
Này thiện nam tử! Như ông vừa nói trong sửa có tánh của chất lạc, cớ sao người bán sửa chỉ lấy giá tiền sửa mà chẳng đòi tiền chất lạc. Người bán ngựa cái cớ sao chỉ lấy tiền ngựa mà chẳng đòi tiền ngựa con.
Này thiện nam tử! Người đời vì không con cái nên cầu cưới vợ. Vợ nếu có thai nghén thời chẳng được gọi là con gái. Nếu nói là con gái có tánh của con cái nên phải cưới hỏi thời không đúng. Vì nếu có tánh của con cái lẻ ra cũng phải có tánh của cháu.
Nếu có tánh của cháu thời thành ra anh em, vì đồng một bụng sanh ra vậy. Do đây nên ta nói rằng nơi người con gái không có tánh của con cái.
Nếu trong sửa kia có tánh của chất lạc cớ sao chẳng thấy cả năm vị đồng một thời. Nếu trong hột cây có tánh chất của cây Ni Câu Đà cao năm trượng, cớ sao chẳng thấy mọng cây, nhánh lá, bông trái, hình sắc sai khác của cây đồng một thời.
Này thiện nam tử! Lúc là sửa thời màu khác, vị khác công dụng khác, nhẫn đến đề hồ cũng lại như vậy. Làm sao có thể nói được rằng trong sửa có tánh của chất lạc.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Hữu Học Lậu Tận
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Chúng Tập
Phật Thuyết Kinh ưu điền Vương
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm đẳng Thú Tứ đế
Phật Thuyết Kinh ánh Sáng Hoàng Kim - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm Diệu Tràng Tán Dương
Phật Thuyết Kinh Tứ Thập Nhị Chương - Chương Ba Mươi Tám - Có Sanh Tất Có Diệt
Phật Thuyết Kinh Vô Thượng Y - Phẩm Một - Phẩm Sự Suy Lường Công đức