Phật Thuyết Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ đà La Ni - Phẩm Hai - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH

THỦ HỘ QUỐC GIỚI CHỦ ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã, Đời Đường  

PHẨM HAI  

TẬP HAI  

Bấy giờ, Nhất Thiết pháp Tự Tại Vương Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn!

Như Đức Phật đã nói: Như tính của hư không tức là tính của tâm, như ở tính của tâm tức là tính của bồ đề, như tính của bồ đề tức là tính của Đà La Ni. Tính của hư không, tính của tâm, tính của bồ đề, tính của Đà La Ni ấy không có hai, không có riêng biệt.

Nghĩa như vậy rất sâu xa, rất sâu xa, khó thể thông đạt, khó thể hướng vào, chẳng thể nghĩ bàn, vượt quá đất tâm Citta bhūmi: Tâm địa, chẳng phải là chỗ mà kẻ phàm ngu phân tích kém phàm ngu liệt giải hiểu biết được.

Ở trong Hội này có hai loại người. Một là người viên mãn địa vị của Bồ Tát liền được lợi ích. Hai là kẻ chưa được thành tựu công đức của Bồ Tát như Vua A Xà Thế, chủ của nước Ma Già Đà với Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di… vô lượng chúng sinh, tức không có lợi ích. Các kẻ Phàm Ngu này giống như người sinh ra đã bị mù chẳng thấy được ánh sáng của ngọn đèn, lại như người điếc chẳng nghe được lời nói nhỏ nhẹ, như đất sỏi đá mặn chẳng sinh được hoa sen.

Thế Tôn! Như có Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng Giả ở đời đói kém: Ăn mọi thức ngon ngọt, các món ăn quý báu của Cõi Trời, lên lầu gác cao báo cho vô lượng chúng sinh đói khổ, nói lời như vậy: Ta ăn mọi loại thượng vị như vậy. Tuy nói lời đấy nhưng đối với các người bị đói đều không có chỗ lợi ích. Nay điều Đức Phật đã nói, ở trong Chúng Hội này, người chưa thành tựu cũng lại như vậy, đều không có lợi ích.

Khi ấy, Đức Phật bảo Nhất Thiết Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát rằng: Lành thay! Lành thay thiện nam tử! Khéo hay thưa hỏi pháp sâu xa như vậy! Nhiều chỗ lợi lạc cho tất cả chúng sinh.

Hảy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ! Ta sẽ vì ông với chúng hội này, dùng các phương tiện chỉ dạy cho các ông, khiến cho ông được hiểu bất khả tư nghị nhất thiết trí trí Chư Phật Cảnh Giới Thậm Thâm Tam Muội, Tam Muội sâu xa trong cảnh giới của Chư Phật thuộc nhất thiết trí trí chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Nếu các Phật Tử Buddha putra muốn được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miểu Tam bồ đề Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác hoặc người muốn khéo hay biết tâm của mình, hoặc có kẻ muốn dùng bàn tay đại từ bi kéo chúng sinh ra khỏi vũng bùn sinh tử.

Nên trước tiên phát khởi tâm đại từ bi, vì khắp chúng sinh quy y Tam Bảo, thọ Bồ Tát Giới, phát tâm bồ đề, chí thành sám hối, nói lời như vậy: Nguyện xin tất cả Chư Phật cùng với các Đại Bồ Tát trụ Địa sinh ra thể căn bản của pháp được Trí Kim Cương Vajra Jñāna ở mười phương hãy chứng biết cho con, hãy nghĩ nhớ đến con.

Con tên là…  cùng với… phát tâm bồ đề, chưa trụ diệu đạo. Nay đem thân mệnh quy y tất cả Tam Bảo ở mười phương. Nguyện xin Chư Phật, các Đại Bồ Tát khởi tâm từ bi thương xót nhiếp thọ.

Con tên là… cùng với… từ vô thủy lưu chuyển đến nay, ở trong vòng sinh tử của ba cõi, chìm đắm tại nẻo ác, vào cái lồng đau khổ, điên đảo trong cũi tù, rơi vào các chỗ ác, cõi lưới vô minh có thế lực lớn, các đêm dài phiền não oán bức bách, không có chủ.

Không có sự cứu giúp, không có nơi quy về, không có chỗ nương dựa, không có chốn hướng đến, không có người chỉ đường, trụ ở trong đường hiểm ác tà kiến, hướng đến sinh tử, trở ngược lại buông bỏ Niết Bàn Nirvāṇa, vào ba đường ác chẳng thể tự đi ra, rơi vào trong hầm sâu rộng lớn hiểm ác, chạy theo bạn ác, tùy thuận sự chỉ dạy ác, xa lìa tất cả các thiện tri thức Kalyāṇamitra.

Đều chẳng hiểu biết: Điều nào gây tổn hại, điều nào tạo lợi ích, điều nào là thiện kuśala, điều nào là ác akuśala, hay pāpa, làm pháp bất thiện akuśala dharma cột dính chẳng buông xả.

Vứt bỏ tất cả Thánh nhân Ārya của Ba Thừa Trīṇi yānāni, đêm dài thường bị vây bủa bởi: Sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não, mọi loại hoặc nghiệp nghiệp mê mờ chẳng giải thoát, tên gọi chung của nghiệp phiền não, lo buồn sợ hãi, luôn đánh mất tự tính vắng lặng của bản tâm.

Xa lìa mọi loại: Tam Ma Địa Môn Samādhimukha, Đà La Ni Môn Dhāraṇī mukha, các Địa Bhūmi, các Nhẫn Kśānti, chỗ trụ sâu xa của bát nhã Ba la mật đa Prajña pāramitā.

Cũng lại xa lìa: Từ Maitri, Bi Kāruṇā, Hỷ Muditā, Xả Upakṣā, các Bồ Tát Giới Giới luật của Bồ Tát, bốn Trí Vô Ngại gồm có: Nghĩa Vô Ngại Trí, Pháp Vô Ngại Trí, Biện Vô Ngại Trí, Lạc Thuyết Vô Ngại Trí, sáu Thông Ṣaḍ abhijñāḥ.

Sáu Thần Thông gồm có: Thần túc thông ṛiddhi viṣaga jñānaṃ, thiên nhãn thông divyaṃ cakṣuḥ jñānaṃ, thiên nhĩ thông divyaṃ śrotraṃ jñānaṃ, tha tâm thông paracitta jñānaṃ, túc mệnh thông purvanivasānusmṛiti jñānaṃ, lậu tận thông āsravakṣaya jñānaṃ.

Mười Lực Daśa balāni: Gồm có xứ phi xứ trí lực, nghiệp dị thục trí lực, tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực, thượng căn hạ trí lực, chủng chủng thắng.

Giải trí lực, biến thú hành trí lực, túc trụ tùy niệm trí lực, sinh tử trí lực, lậu tận trí lực, bốn vô sở úy Catvāri vaiśāradyāni gồm có: Chư Pháp Hiện Đẳng Giác Vô Úy Sarva dharmābhisaṃbodhi vaiśāradya.

Nhất Thiết Lậu Tận Trí Vô Úy Sarvāsrava kṣaya jñāna vaiśāradya, Tùy Pháp Bất Hư Quyết Định Thọ Ký Vô Úy Antarāyika dharmānanyathātva niścita vyākaraṇa vaiśāradya, Vi Chứng Nhất Thiết Cụ Túc Xuất Đạo Như tính Vô Úy Sarva saṃpad adhigamāya nairyāṇika pratipattathātva vaiśāradya, pháp không quên mất, Vô Trụ Niết Bàn Aparatīṣṭhita nirvāṇa.

Thân của con đầy đủ tất cả Tùy Miên Anuśaya: Tên gọi khác của phiền não, thân của con trống rỗng không có tất cả công đức.

Bảy bồ đề Phần Sapta bodhyaṅgāni: Bảy Giác Chi gồm có Niệm Giác Chi Smṛti sambodhyaṅga, Trạch pháp Giác Chi Dharma vicaya sambodhyaṅga, Tinh Tiến Giác Chi Vīrya sambodyaṅga, Hỷ Giác Chi Prīti sambodhyaṅga, Khinh An Giác Chi Prasrabdhi sambodhyaṅga, Định Giác Chi Samādhi sambodhyaṅga.

Xả Giác Chi Upekṣā sambodhyaṅga tám Thánh Đạo Phần Aṣṭāṅgika: Tám chánh đạo gồm có chánh kiến samyag dṛṣṭi, chánh tư duy samyak saṃkalpa, chánh ngữ samyag vāc, chánh nghiệp samyak karmānta, chánh mệnh samyag ājīva, chánh tinh tiến samyagvyāyāma, chánh niệm samyag smṛti, chánh định samyak samādhi, trăm ngàn vạn loại pháp của nhóm như vậy thảy đều xa lìa. Vô số khổ não, chướng ngại, lưu nạn… luôn gây não hại.

Nguyện xin Chư Phật, các Đại Bồ Tát khởi đại từ bi thương xót, hộ niệm. Vì con làm chủ, làm người cứu giúp, làm chỗ quy về, làm nơi nương dựa.

Nguyện khiến cho chúng con mau được viên mãn Đạo Đại bồ đề Mahā bodhimārga với ở vô lượng quyến thuộc bồ đề: Mười Lực của Như Lai Tathāgata daśa balāni, bốn Vô Sở Úy Catvāri vaiśāradyāni.

Bốn Vô Ngại Giải Catasraḥ pratisaṃvidaḥ gồm có: Pháp vô ngại giải dharma pratisaṃvid, nghĩa vô ngại giải artha pratisaṃvid, từ vô ngại giải nirukti pratisaṃvid, biện vô ngại giải pratibhāna pratisaṃvid.

Mười tám Bất Cộng mười tám pháp chẳng cộng thông với Thanh Văn, Duyên Giác gồm có: Chư Phật thân vô thất, khẩu vô thất, niệm vô thất, vô dị tưởng, vô bất định tâm, vô bất tri kỷ xả tâm, dục vô diệt, tinh tiến vô diệt.

Niệm vô diệt, tuệ vô diệt, giải thoát vô diệt, giải thoát tri kiến vô diệt, nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành, nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí tuệ hành, trí tuệ tri kiến quá khứ thế vô ngại vô chướng, trí tuệ tri kiến vị lai thế vô ngại vô chướng, trí tuệ tri kiến hiện tại thế vô ngại vô chướng.

Bốn nhiếp catvāri saṃgraha vastūni gồm có: Bố thí nhiếp dāna saṃgraha, ái ngữ nhiếp priyavādita saṃgraha, lợi hành nhiếp artha caryā saṃgraha, đồng sự nhiếp samānārthatā saṃgraha, tam muội samādhi, giải thoát vimokṣa, hay vimukti, mukti, tổng trì dhāraṇī, sáu thông ṣaḍ abhijñāḥ, các độ pāramitā, phước đức puṇya guṇa, trí tuệ prajñā … tất cả các biển công đức guṇasāgara như vậy, nguyện khiến cho chúng con đều được đầy đủ.

Lại nữa tất cả Chư Phật, các Đại Bồ Tát ở mười phương hãy chứng biết cho con, thương xót con, nhận sự cúng dường của con. Nguyện khiến cho vật cúng gom chứa tròn đủ cùng với Thân của con tràn đầy khắp tất cả Thế Giới ở mười phương.

Với nhiếp vô lượng vật cúng trang nghiêm rộng lớn không có chủ tể ở mười phương, hiện ra trước mặt cúng dường Chư Phật Bồ Tát là: Mọi loại báu màu nhiệm, cung điện của Chư Thiên đều dùng báu màu nhiệm để trang nghiêm. Mọi lan can báu chia bày thành hàng.

Cây báu, núi báu làm giải băng phản chiếu bóng sáng. Tòa báu, lọng báu, phướng báu, phan báu, vật khí báu, ngọc báu, chuông báu, lưới báu, ánh sáng báu, ánh lửa báu với công đức báu… mỗi mỗi vô lượng vô số viên ngọc báu, báu Ma Ni gom tụ tràn đầy trong chốn ấy. Các cây đèn báu, mọi loại báu màu nhiệm sen kẽ trang nghiêm, ánh lửa vàng ròng phát sáng rực, lưới báu quây che.

Lại có vô số hoa sen báu màu nhiệm, dùng vàng Diêm Phù Đàn Jambūnadasuvarṇa làm đài, vàng ròng Suvarṇa làm lá, hạm đạm hoa sen nở rộ. Kéo mây báu của Cõi Trời, tuôn mưa báu của Cõi Trời, đưa cây báu của Cõi Trời xuống dưới, rải hoa báu của Cõi Trời, phát ra mọi ánh sáng báu, mở mọi kho tàng báu.

Lại có vô số vàng Diêm Phù Đàn, cung điện của Chư Thiên, mọi báu trang nghiêm, mái hiên báu màu nhiệm, Kim Cương làm tường vách, mọi lan can báu giáp vòng vây quanh. Mọi loại vườn hoa, vườn thú màu nhiệm của Thiên Tiên. Rừng hoa, cỏ thơm tỏa hương thơm khắp.

Vô số cung Rồng, cung A Tu La đều có mọi loại cây rừng, điện đường, hoa thơm, vật khí báu. Dùng vô lượng vô biên mọi vật cúng quý báu chưa từng thọ dụng của nhóm như vậy, đều cùng hồi hướng cúng dường Chư Phật, Bồ Tát ở mười phương.

Lại nhiếp mọi loại thuốc màu nhiệm của tất cả Thế Giới ở mười phương với Cam Lộ Amṛta của Cõi Trời, các món ăn quý báu có mùi vị thơm ngon tốt đẹp của Cõi Trời… thảy đều đầy đủ.

Lại nhiếp các cây Diệu Hương, cây Long Não Hương, Cây Chiên Đàn Hương, cây Tùy Thời Hương, cây Đại Diệp Hương trong tất cả Thế Giới ở mười phương. Cây ấy bốn thời nở hoa, liên tục tỏa hương thơm mỹ diệu. Nếu có người ngửi thấy, liền ngưng đọng trầm lắng. Vô lượng cây hương như vậy tỏa mùi thơm tho nồng nàn, hay đoạt được tâm người.

Lại có vô lượng nhóm cây Như Ý không có chủ tể, tùy theo tâm ước nguyện đều được đầy đủ mọi loại Ma Ni với báu Như Ý trong biển bớn.

Lại có mọi loại báu, núi Mê Lô Meru, núi Ma Ha Mê Lô Mahā meru, núi Yết La Tư, núi Kiện Đà Mạt Đà Gandhamādana, núi Ma La Gia Malaya, núi Vĩ Nễ Gia Vidya, núi Dân Đà La Nimin dhara, núi Ma Ha Dân Đà La Mahā nimindhara, núi Mục Lân Chân Đà Mucilinda, núi Ma Ha Mục Lân Chân Đà Mahāmucilinda, núi Kim Cương Vajra …

Đỉnh núi như vậy có mọi loại báu trang nghiêm, mọi loại lầu gác báu, mọi loại hang núi báu, mọi loại lọng trướng báu, mọi loại hiên nhà báu, mọi loại thềm bậc báu, mọi loại cửa sổ báu, mọi loại vật trang điểm báu, mọi loại rường cột báu, mọi loại kho tàng báu, mọi loại tường vách báu của nhóm Phệ Lưu Ly.

Lại có mọi loại hình sắc kỳ diệu, cung điện của Chư Thiên không có chủ thể.

Lại có mọi loại các thứ hoa màu nhiệm của Cõi Trời thuộc nhóm Câu Tô Ma Kusuma. Người nhìn thấy không có nhàm chán, trong mát, ưa thích.

Lại có mọi loại các âm thanh màu nhiệm hay khiến cho người nghe, thân tâm an vui, không có các nhiệt não mà được trong mát, chặt đứt tham sân, diệt tan si độc, tồi hoại nghiệp ác khiến không có dư sót.

Ấy là: Tiếng của Trời Đế Thích, tiếng của Phạm Thiên Vương, mọi loại tiếng của Cõi Trời, tiếng ca vịnh của các Đại Tiên Nữ, các nhạc khí của Cõi Trời chẳng do vỗ đánh phát ra tiếng vi diệu.

Tiếng của nhóm tiêu cái sáo thổi dọc, địch cái sáo thổi ngang, không hầu cây đàn vīṇā, Tỳ Bà cây đàn Tuṇava, cầm sắt một loại nhạc khí, loa bối nhạc khí hình xoắn ốc … tiếng trống của Trời Đao Lợi, tiếng trống Mâu Đà La Mudrā duṇḍubhi.

Lại có mọi loại tiếng chim của Chư Thiên với tiếng chim ở núi, rừng, suối, sông.

Ấy là: Tiếng kêu hót của mọi loài chim xinh đẹp như: Bạch Hạc Haṃsa.

Khổng Tước Mayūra: Chim công, vịt trời, chim nhạn, chim Uyên Ương, chim Câu Chỉ La, chim Mệnh Mệnh Jīvaṃ jīvaka.

Chim Ca Lăng Tần Già Kalaviñka với các âm thanh màu nhiệm của nhóm Lộc Vương Mṛga rāja: Vua nai.

Lại có tiếng của mọi loại mây, tiếng của đất, tiếng của nước, tiếng của lửa, tiếng của gió, tiếng sóng to sóng nhỏ của biển lớn.

Tiếng của nhóm như vậy, nếu người nghe thấy đều hiểu rõ, yêu thích không chán ghét, nhĩ căn Śotrendriya: Nói lược là lỗ tai an tịnh, tiếng ấy sâu xa, tiếng chân thật thông suốt hay sinh căn lành. Văn, chữ, tên, câu thảy đều đầy đủ cùng với nghĩa tương ứng, khế hợp với lý của pháp thâm sâu, khéo hợp thời nghi.

Ấy là tiếng bình đẳng của ba thừa Trīṇi yānāni gồm có: Thanh Văn Thừa Śrāvaka yāna, Duyên Giác Thừa Pratyeka buddha yāna.

Bồ Tát Thừa Bodhisatva yāna hay đại thừa Mahā yāna, tiếng diễn nói ba Minh Tri vidya gồm có: Túc Mệnh Trí Chứng Minh Pūrva nivāsānusmṛti jñāna sākṣāt kriya vidyā, Sinh Tử Trí Chứng Minh Cyuty upapatti jñāna sākṣāt kriya vidyā, Lậu Tận Trí Chứng Minh Āsrava kṣaya jñāna sākṣāt kriya vidyā.

Tiếng trang nghiêm Đàn Ba la mật Dāna pāramitā: Bố thí Ba la mật, tiếng thanh tịnh Thi La Ba la mật Śīlapāramitā: Trì giới Ba la mật.

Tiếng hay sinh Sạn Đề Ba la mật Kṣāntipāramitā: Nhẫn nhục Ba la mật, tiếng siêng tu tinh tiến Ba la mật Vīryapāramitā.

Tiếng thành tựu Thiền na Ba la mật Dhyāna pāramitā: Thiền định Ba la mật.

Tiếng bát nhã Ba la mật Prajña pāramitā: Trí tuệ Ba la mật rộng lớn, tiếng cho tâm hòa hợp với đại từ mahā maitri, tiếng cho giác hòa hợp với đại bi mahā kāruṇa, tiếng cho ảnh ánh sáng hòa hợp với đại hỷ māhā muditā, tiếng đồng với đại xả mahā upekṣa của hư không, tiếng sinh ra ba thừa, tiếng chẳng đoạn Tam Bảo Tri ratna.

Hay Ratna traya gồm có: Phật Buddha, pháp Dharma, Tăng Saṃgha, tiếng phân biệt ba tụ gồm có chánh định tụ, tà định tụ, bất định tụ, tiếng thanh tịnh ba.

Không gồm có ngã không, pháp không, câu không, tiếng quán sát bốn Đế Catvary ārya satyāni gồm có: Khổ Đế Duḥkhaāryasatya, Tập Đế Samudyaāryasatya, Diệt Đế Nirodhaāryasatya, Đạo Đế Mārgaāryasatya, tiếng quán sát trí tuệ, tiếng bậc Trí chẳng hủy, tiếng Bậc Thánh xưng tán, tiếng lượng ngang bằng với hư không… xuất ra âm thanh thanh tịnh của nhóm như vậy, hồi hướng cúng dường Chư Phật Bồ Tát.

Lại có mọi loại cây hoa hoa thụ phát ra mùi thơm của hoa màu nhiệm, mọi loại cây vòng hoa man thụ rũ các dây vòng hoa, mọi loại cây phướng tràng thụ cao hiển dựng lập, mọi loại cây phan phan thụ tiếp nối bóng ảnh phát sáng. Cầm tất cả vật màu nhiệm của nhóm như vậy, dùng tâm vô ngã hồi hướng cúng dường tất cả Chư Phật, các Đại Bồ Tát.

Lại dùng tất cả chỗ mà mắt Phật đã nhìn thấy đám mây cúng dường lớn trong vô biên tất cả Thế Giới ở mười phương, dùng để cúng dường.

Ấy là: Mọi loại mây hoa, mọi loại mây hương. Mọi loại mây trướng vòng hoa, mây hương xoa bôi, mây hương bột, mây lọng báu, mây tòa báu, mây phướng báu, mây phan báu, mây quần áo báu màu nhiệm, mây vật dụng làm bằng mọi báu, mây các thượng vị của Cõi Trời, mây nhóm báu Ma Ni… mọi loại mây cúng vô lượng sắc loại các báu như vậy, hồi hướng cúng dường tất cả Chư Phật, các hàng Bồ Tát.

Lại nên nguyện dùng một tiểu thiên Thế Giới làm một chén đèn, bên trong tràn đầy lượng dầu thơm, dùng khoảng một trăm núi Tu Di làm cây đuốc, dùng ánh lửa báu thắp sáng, phát ra ánh sáng lớn cúng dường tất cả Chư Phật Bồ Tát. Như vậy cúng dường không có cùng tận.

Lại nên khuyến thỉnh tất cả Như Lai đến cây bồ đề, giáng phục chúng Ma, thành Đẳng, Chánh Giác Samyaksaṃbudha, chuyển bánh xe Diệu pháp Saddharma cakra, trụ lâu một đại kiếp Mahā kalpa, đừng vào Niết Bàn Parinirvāṇa: Bát Niết Bàn.

Lại nên đem mọi loại căn lành này hồi hướng cho chúng sinh, nguyện các chúng sinh mau chứng A Nậu Đa La Tam Miểu Tam bồ đề Anuttarāsamyaksaṃbuddhi: Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Như vậy khi hồi hướng thời chẳng thấy tâm hay hồi hướng, chẳng nhận lấy cảnh đã hướng đến, chẳng vào nơi đã hồi hướng căn lành, ba luân gồm có thân luân, khẩu luân, ý luân thanh tịnh.

Lại nữa tất cả Như Lai, tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sinh. Hết thảy công đức của nhóm loại như vậy, con đều tùy vui.

Lại tác nguyện này: Dùng căn lành này, nguyện khiến cho tất cả các chướng, nghiệp ác rất nặng của chúng con đều được tiêu diệt.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói Hồi Hướng Đà La Ni là:

Án sa ma la, sa ma la vi ma nẵng sa la Ma Ha chước ca la phộc hồng.

Đức Phật nói: Mọi loại vật cúng đã nói như trên, dùng sức của Hồi Hướng Đà La Ni này, ở trước mặt Chư Phật đều được thành tựu cúng dường chân thật, tất cả Chư Phật thảy đều nhiếp thọ.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện có thể đối với Môn Đại Hồi Hướng Luân Đà La Ni này, hoặc đúng thời, chẳng đúng thời, hoặc ngày, hoặc đêm… ngầm niệm một biến, quán sát vận tưởng. Đem vật cúng lúc trước cung kính cúng dường Chư Phật Bồ Tát.

Do sức này cho nên nghiệp tội rất nặng của nhóm năm vô gián đều được tiêu diệt, huống chi là tội nhẽ mà chẳng trừ diệt được sao?

Tất cả phiền não đều được mỏng nhạt, như trước đã nói: Mười lực vô úy, các nhóm công đức thảy đều đầy đủ.

Nếu người tạm đối với Đà La Ni này, suy tư một lần, liền được trăm lần chuyển sinh trong cung Đế Thích, lại được trăm lần chuyển sinh trong cung Phạm Vương, ban đêm ở trong mộng thấy Phật Bồ Tát vì mình nói diệu pháp, không có các mộng ác, đối với các Tổng Trì đều được thành tựu, tùy nguyện sinh về Tịnh Thổ của Chư Phật.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần