Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI BA

PHẨM SƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT  

PHẦN HAI  

Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh dầu có mười hai nhân duyên như vậy, hoặc có kẻ chưa đủ như lúc Ca La Lã chết thời không có mười hai. Từ sanh đến lão tử thời đủ mười hai.

Chúng sanh Cõi Sắc không có ba thứ thọ, ba thứ xúc, ba thứ ái, không có già bệnh, nhưng cũng được gọi là đầy đủ mười hai.

Chúng sanh Cõi Vô Sắc thời không có sắc nhẫn đến không lão bệnh, nhưng cũng được gọi là đủ mười hai, vì quyết định được vậy. Vì thế nên nói rằng chúng sanh đồng đầy đủ có mười hai nhân duyên.

Phật Tánh cũng như vậy, tất cả chúng sanh quyết định sẽ đặng thành vô thượng bồ đề. Do đây nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.

Này thiện nam tử! Núi Tuyết có thứ cỏ tên nhẫn nhục, nếu bò ăn cỏ này thời sanh chất đề hồ. Trên núi ấy lại có thứ cỏ khác, nếu bò ăn thứ cỏ ấy thời không sanh chất đề hồ. Dầu không sanh chất đề hồ nhưng chẳng thể nói rằng trong núi Tuyết không có cỏ nhẫn nhục.

Phật Tánh cũng như vậy. Núi Tuyết là nói Như Lai, cỏ nhẫn nhục là nói Đại Niết Bàn, những cỏ khác là nói mười hai Bộ Kinh.

Chúng sanh nếu có thể được nghe, được học hỏi Đại Niết Bàn thời thấy được Phật Tánh. Trong mười hai Bộ Kinh dầu chẳng nghe có, nhưng chẳng thể nói rằng không có Phật Tánh.

Này thiện nam tử! Phật Tánh đây cũng là sắc, cũng là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng phải sắc.

Cũng là tướng cũng là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng.

Cũng là một cũng là chẳng phải một, chẳng phải một chẳng phải là chẳng phải một.

Chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải chẳng phải thường, chẳng phải chẳng phải đoạn.

Cũng là có cũng là không, chẳng phải có chẳng phải không.

Cũng là tận cũng là chẳng phải tận, chẳng phải tận, chẳng phải là chẳng phải tận.

Cũng là nhân cũng là quả, chẳng phải nhân chẳng phải quả.

Cũng là nghĩa cũng là chẳng phải nghĩa, chẳng phải nghĩa chẳng phải là chẳng phải nghĩa.

Cũng là danh tự cũng là chẳng phải danh tự, chẳng phải danh tự chẳng phải là chẳng phải danh tự.

Cũng là khổ cũng là lạc, chẳng phải khổ chẳng phải lạc.

Cũng là ngã cũng là chẳng phải ngã, chẳng phải ngã chẳng phải là chẳng phải ngã.

Cũng là không cũng là chẳng phải không, chẳng phải là không chẳng phải là chẳng phải không.

Thế nào là sắc?

Vì là thân Kim Cang.

Thế nào là phi sắc?

Vì mười tám pháp bất cộng chẳng phải là sắc pháp.

Thế nào là chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng phải sắc?

Vì sắc cũng chẳng phải sắc không có tướng quyết định.

Thế nào là tướng?

Vì là ba mươi hai tướng.

Thế nào là chẳng phải tướng?

Vì tất cả chúng sanh chẳng hiện được tướng tốt.

Thế nào là chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng?

Vì tướng cùng chẳng phải tướng không quyết định vậy.

Thế nào là một?

Vì tất cả chúng sanh đều là nhất thừa.

Thế nào là chẳng phải một?

Vì nói ba thừa vậy.

Thế nào là chẳng phải một chẳng phải là chẳng phải một?

Vì vô số pháp vậy.

Thế nào là chẳng phải thường?

Vì từ nơi duyên mà thấy.

Thế nào là chẳng phải đoạn?

Vì lìa đoạn kiến vậy.

Thế nào chẳng phải là chẳng phải thường, chẳng phải là chẳng phải đoạn?

Vì không chung không thỉ vậy.

Thế nào là có?

Vì tất cả chúng sanh đều có.

Thế nào là không?

Vì từ phương tiện khéo mà đặng thấy vậy.

Thế nào là chẳng phải có, chẳng phải không?

Vì hư không tánh vậy.

Thế nào gọi là tận?

Vì đặng Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.

Thế nào là chẳng phải tận?

Vì là thường vậy.

Thế nào là chẳng phải tận, chẳng phải là chẳng phải tận?

Vì tất cả tướng tận dứt hết vậy.

Thế nào là nhân?

Vì liễu nhân vậy.

Thế nào là quả?

Vì quả quyết định vậy.

Thế nào là chẳng phải nhân chẳng phải quả?

Vì là thường vậy.

Thế nào là nghĩa?

Vì đều có thể nhiếp lấy nghĩa không ngại.

Thế nào là chẳng phải nghĩa?

Vì chẳng thể nói vậy.

Thế nào là chẳng phải nghĩa chẳng phải là chẳng phải nghĩa?

Vì rốt ráo không vậy.

Thế nào là danh tự?

Vì có tên gọi vậy.

Thế nào là chẳng phải danh tự?

Vì có tên mà thiệt không tên vậy.

Thế nào là chẳng phải danh tự chẳng phải là chẳng phải danh tự?

Vì dứt tất cả danh tự vậy.

Thế nào là cũng khổ cũng lạc?

Vì các thọ duyên khởi vậy.

Thế nào là chẳng phải khổ chẳng phải lạc?

Vì dứt tất cả thọ vậy.

Thế nào là chẳng phải ngã?

Vì chưa đầy đủ được tám thứ tự tại vậy.

Thế nào là chẳng phải chẳng phải ngã?

Vì là thường vậy.

Thế nào là chẳng phải ngã chẳng phải là chẳng phải ngã?

Vì chẳng tạo tác chẳng lãnh thọ vậy.

Thế nào là không?

Vì là đệ nhất nghĩa không.

Thế nào là chẳng phải không?

Vì là thường vậy.

Thế nào là chẳng phải không chẳng phải là chẳng phải không?

Vì có thể là chủng tử cho pháp lành vậy.

Này thiện nam tử! Nếu có người tư duy hiểu rõ được Kinh Đại Niết Bàn những nghĩa như vậy, nên biết rằng người này thấy được Phật Tánh. Phật Tánh đó chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh giới của Chư Phật, chẳng phải Thanh Văn, Duyên Giác biết được.

Này thiện nam tử! Phật Tánh chẳng phải là ấm, giới, nhập, chẳng phải trước không nay có, chẳng phải đã có rồi trở lại không, từ nơi nhân duyên lành mà chúng sanh đặng thấy.

Ví như khối sắt đen để vào lửa đốt thời đỏ, lấy ra nguội thời trở lại đen. Dầu vậy nhưng màu đen này chẳng phải trong chẳng phải ngoài, do nhân duyên mà có. Phật Tánh cũng như vậy, lửa phiền não tắt dứt thời chúng sanh được nghe được thấy.

Này thiện nam tử! Như hột giống biến diệt thời mầm mộng mọc lên, nhưng tánh mầm mộng này chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Nhẫn đến bông trái cũng như vậy, đều theo nơi duyên mà có. Kinh Đại Niết Bàn vi diệu này thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Phật Tánh cũng như vậy đều là vô lượng vô biên công đức kết hợp mà thành tựu.

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Bồ Tát thành tựu đầy đủ bao nhiêu pháp thời đặng thấy Phật Tánh mà chẳng rõ ràng?

Chư Phật Thế Tôn thành tựu bao nhiêu pháp mà được thấy rõ ràng?

Phật bảo: Này thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu đầy đủ mười pháp dầu được thấy Phật Tánh mà chẳng rõ ràng: Một là thiểu dục, hai là tri dục, ba là tịch tịnh, bốn là tinh tấn, năm là chánh niệm, sáu là chánh định, bảy là chánh huệ, tám là giải thoát, chín là tán thán giải thoát, mười là dùng Đại Niết Bàn giáo hóa chúng sanh.

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Thiểu dục cùng tri túc có gì sai khác?

Phật bảo: Này thiện nam tử! thiểu dục là chẳng cầu chẳng lấy. Tri túc là lúc đặng ít lòng không hối hận. Thiểu dục là ít có mong muốn. Tri túc là chỉ vì pháp Sự lòng chẳng sầu não.

Này thiện nam tử! Dục đó có ba: Một là ác dục, hai là đại dục, ba là dục dục.

Ác dục là nếu có Tỳ Kheo sanh lòng tham dục muốn làm thượng thủ của tất cả đại chúng, muốn cho tất cả chúng tăng thuận theo phía sau ta, khiến bốn bộ chúng thảy đều cúng dường cung kính tán thán tôn trọng ta.

Khiến ta vì chúng Sông Hằng trước nhất, đều muốn cho tất cả tin thọ lời của ta. Cũng khiến Quốc Vương, quan lớn, trưởng gỉa đều cung kính ta.

Khiến ta được nhiều y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà cửa tốt đẹp. Đây là cầu muốn sanh tử nên gọi là ác dục.

Đại dục là thế nào?

Nếu có Tỳ Kheo sanh lòng cầu muốn làm thế nào cho bốn bộ chúng thảy đều biết ta được bậc Sơ Trụ những đến Thập Trụ, được vô thượng bồ đề, được quả A La Hán nhẫn đến quả Tu Đà Hoàn, ta được tứ thiền nhẫn đến bốn trí vô ngại. Đây là vì lợi dưỡng nên gọi là đại dục.

Dục dục là, nếu có Tỳ Kheo muốn sanh Phạm Thiên, Ma Thiên, Tự Tại Thiên, Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc Sát Đế Lợi, Cư Sĩ, Bà La Môn, đều được tự tại. Vì lợi dưỡng nên gọi là dục dục. Nếu chẳng bị ba thứ ác dục này làm hại thời gọi là thiểu dục.

Dục đó gọi là hai mươi lăm ái, không có hai mươi lăm ái như vậy thời gọi là thiểu dục. Chẳng cần những sự mong muốn vị lai thời gọi là thiểu dục. Được mà chẳng tham đắm thời gọi là tri túc. Chẳng cầu cung kính gọi là thiểu dục, được mà chẳng chứa nhóm gọi là tri túc.

Này thiện nam tử! Có lúc thiểu dục chẳng gọi là tri túc, cũng có tri túc chẳng gọi là thiểu dục, cũng có thiểu dục mà cũng tri túc, cũng có chẳng tri túc chẳng thiểu dục.

Thiểu dục đó là nói bậc Tu Đà Hoàn. Tri túc đó là nói Bích Chi Phật. Thiểu dục tri túc đó là nói A La Hán. Chẳng thiểu dục chẳng tri túc đó là nói Bồ Tát.

Này thiện nam tử! Thiểu dục tri túc lại có hai thứ: Một là thiện, hai là bất thiện.

Bất thiện là nói phàm phu. Thiện là nói Thánh Nhân và Bồ Tát. Tất cả Thánh Nhân dầu chứng được đạo quả mà chẳng tự xưng nói vì chẳng tự xưng nói nên trong lòng chẳng não hận, đây gọi là tri túc.

Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu tập Kinh Đại Niết Bàn, vì muốn thấy Phật Tánh nên tu tập thiểu dục tri túc.

Thế nào là tịch tịnh?

Tịch tịnh có hai:

Một là tâm tịnh, hai là thân tịnh. Thân tịch tịnh thời trọn chẳng gây tạo ba điều ác nơi thân. Tâm tịch tịnh cũng chẳng gây tạo ba điều ác nơi ý, đây gọi là thân tâm tịch tịnh.

Thân tịch tịnh trọn chẳng gần gũi bốn chúng, chẳng dự việc của bốn chúng. Tâm tịch tịnh là chẳng quen tập tham dục, sân khuể, ngu si. Đây gọi là thân tâm tịch tịnh. Hoặc có Tỳ Kheo thân dầu tịch tịnh mà tâm chẳng tịch tịnh.

Có Tỳ Kheo thân chẳng tịch tịnh mà tâm tịch tịnh. Có Tỳ Kheo thân tâm đều tịch tịnh. Lại có Tỳ Kheo thân tâm đều chẳng tịch tịnh.

Người thân tịch tịnh mà tâm chẳng tịch tịnh, như có Tỳ Kheo ngồi thiền chỗ vắng vẻ xa lìa bốn chúng mà trong lòng luôn chứa nhóm tham dục, sân khuể, ngu si.

Người tâm tịch tịnh mà thân chẳng tịch tịnh, như có Tỳ Kheo gần gũi bốn chúng cùng Quốc Vương, đại thần mà trong lòng dứt tham, sân, si. Người thân tâm đều tịch tịnh, chính là Chư Phật và Bồ Tát.

Người thân tâm đều chẳng tịch tịnh chính là các phàm phu, vì phàm phu thân tâm dầu yên tịnh nhưng không thể quán sát sâu xa lý vô thường vô lạc vô ngả vô tịnh, do đây nên phàm phu không thể tịch tịnh được thân, khẩu, ý ba nghiệp.

Hạng Nhất xiển đề phạm bốn tội nặng, tạo năm tội nghịch cũng chẳng gọi là thân tâm tịch tịnh.

Thế nào là tinh tấn?

Nếu có Tỳ Kheo muốn cho thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh nên xa lìa tất cả hạnh nghiệp bất thiện mà tu tập tất cả nghiệp lành, đây gọi là tinh tấn.

Siêng năng tinh tấn như đây thời chuyên niệm tưởng nơi sáu chỗ, chính là Phật Pháp Tăng, giới, thí và thiên, đây gọi là chánh niệm.

Người có chánh niệm thời được tam muội, đây gọi là chánh định. Người có chánh định, quán sát thấy các pháp dường như hư không, đây gọi là chánh huệ. Người có chánh huệ xa lìa tất cả kiết sử phiền não, đây gọi là giải thoát.

Người được giải thoát vì chúng sanh mà khen ngợi giải thoát, nói rằng giải thoát là thường hằng chẳng biến đổi đây gọi là tán thán giải thoát. Giải thoát chính là vô thượng Đại Bát Niết Bàn.

Niết Bàn chính là lửa phiền não kiết sử đã tắt mất. Lại Niết Bàn gọi là nhà cửa, vì có thể ngăn mưa gió phiền não. Lại Niết Bàn gọi là Quy Y, vì có thể qua khỏi tất cả những sự bố úy. Lại Niết Bàn gọi là cồn bãi, vì bốn con sông lớn hung bạo chẳng thể chảy trôi.

Những gì là bốn?

Một là dục bạo, hai là hữu bạo, ba là kiến bạo, bốn là vô minh bạo. Do đây nên Niết Bàn gọi là cồn bãi. Lại Niết Bàn gọi là rốt ráo về, vì có thể được tất cả sự an lạc rốt ráo. Nếu có Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ mười pháp như vậy, thời dầu được thấy Phật Tánh mà chẳng rõ ràng.

Lại này thiện nam tử! Người xuất gia có bốn thứ bệnh nên chẳng chứng được bốn quả Sa Môn.

Những gì là bốn bệnh?

Chính là bốn ác dục: Một là y phục dục, hai là thực dục, ba là ngọa cụ dục, bốn là hữu dục.

Bệnh xuất gia này, có bốn thứ lương dược trị lành được: Phấn tảo y trị được bệnh y dục của Tỳ Kheo. Khất thực trị được bệnh vì thực dục. Thọ hạ trị được bệnh ngọa cụ dục. Thân tâm tịch tịnh phá được hữu dục của Tỳ Kheo. Đây gọi là bốn thứ thuốc trị bốn thứ bệnh, gọi đó là thánh hạnh. Thánh hạnh này được gọi thiểu dục tri túc.

Người tịch tịnh có bốn điều vui: Một là xuất gia vui, hai là tịch tịnh vui, ba là vĩnh việt vui, bốn là tất cánh vui. Được bốn điều vui này gọi là tịch tịnh.

Đủ bốn hạnh tinh tấn nên gọi là tinh tấn. Đủ tứ niệm xứ nên gọi là chánh niệm. Đủ tứ thiền nên gọi là chánh định. Thấy bốn điều chân thật của Thánh nên gọi là chánh huệ.

Dứt hẳn tất cả phiền não kiết sử gọi là giải thoát. Qưở trách lỗi của tất cả phiền não gọi là tán thán giải thoát. Đại Bồ Tát đầy đủ mười pháp như vậy, dầu được thấy Phật Tánh mà chẳng rõ ràng.

Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát nghe Kinh này rồi gần gũi tu tập, xa lìa tất cả việc thế gian, đây gọi là thiểu dục. Đã xuất gia rồi chẳng sanh lòng hối hận, đây gọi là tri túc. Đã tri túc rồi gần ở nơi chỗ vắng vẽ rảnh rang xa lìa chỗ ồn ào thời gọi là tịch tịnh. Người chẳng tri túc chẳng thích chỗ vắng vẻ rảnh rang. Luận về người tri túc thời thường thích ở chỗ vắng vẻ.

Ở chỗ vắng vẽ rồi thường suy nghĩ rằng: Tất cả thế gian đều gọi tôi đặng đạo quả Sa Môn, nhưng thiệt ra tôi chưa đặng, nay tôi sao lại phỉnh gạt mọi người, nghĩ như vậy rồi siêng năng tu tập đạo quả Sa Môn, đây gọi là tinh tấn. Gần gũi tu tập Đại Niết Bàn, đây gọi là chánh niệm.

Tùy thuận Thiên hạnh gọi là chánh định. An trụ trong định này có chánh kiến chánh tri, đây gọi là chánh huệ. Người chánh tri kiến có thể xa lìa được kiết sử phiền não, đây gọi là giải thoát.

Thập Trụ Bồ Tát vì chúng sanh mà khen ngợi Niết Bàn, đây gọi là tán thán giải thoát. Đại Bồ Tát đầy đủ mười pháp như vậy, dầu được thấy Phật Tánh mà chẳng rõ ràng.

Lại này thiện nam tử! Luận về người thiểu dục như có Tỳ Kheo ở chỗ vắng vẽ ngồi ngay thẳng chẳng nằm, hoặc ở dưới cội cây, hoặc ở trong gò mã, hoặc ở chỗ trống, tùy chỗ có cỏ mà ngồi trên đó, khất thực mà ăn đặng gì cũng là đủ cả.

Hoặc một lần ngồi ăn, chẳng quá một lần ăn, chỉ chứa ba y, y phấn tảo, y bố, đây gọi là thiểu dục. Đã thật hành việc này trong lòng chẳng ăn năn, đây gọi là tri túc.

Tu không tam muội, đây gọi là tịch tịnh. Đặng bốn quả Sa Môn rồi đối với vô thượng bồ đề tâm chẳng thôi dứt, đây gọi là tinht ấn.

Chuyên tâm tư duy tánh Như Lai là thường không có biến đổi đây gọi là chánh niệm. Tu bát giải thoát đây gọi là chánh định. Đặng tứ vô ngại đây gọi là chánh huệ. Xa lìa bảy thứ lậu, đây gọi là giải thoát. Khen ngợi Niết Bàn không có mười tướng, gọi là tán thán giải thoát.

Mười tướng là: Sanh, già, bệnh, chết sắc, thanh, hương, vị, xúc và vô thường. Xa lìa mười tướng này thời gọi là Đại Niết Bàn. Đây gọi là Đại Bồ Tát đầy đủ mười pháp như vậy dầu được thấy Phật Tánh mà chẳng rõ ràng.

Này thiện nam tử! Vì đa dục nên gần gũi Quốc Vương, Quan lớn, Trưởng Giả, Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, tự xưng là tôi đặng quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả A La Hán. Vì lợi dưỡng nên đi đứng ngồi nằm nhẫn đến đại tiện tiểu tiện, nếu thấy đàn việt vẫn chào hỏi tiếp đãi chuyện vãn.

Người phá ác dục gọi là thiểu dục, dầu người này chưa có thể phá hoại phiền não kiết sử, nhưng có thể đồng hành vi với Như Lai, đây gọi là tri túc.

Này thiện nam tử! Hai pháp như vậy bèn là nhân duyên gần của chánh niệm, chánh định, thường được Sư Trưởng bạn học khen ngợi. Trong các Kinh Phật cũng thường ngợi khen tán thán tôn trọng pháp như vậy. Nếu có thể đầy đủ hai pháp này thời được gần môn Đại Niết Bàn và năm điều vui, đây gọi là tịch tịnh. Người giữ giới bền chắc gọi là tinh tấn.

Người có tàm quý gọi là chánh niệm, chẳng thấy tâm tướng gọi là chánh định, chẳng cầu tánh tướng nhân duyên của các pháp thời gọi là chánh huệ. Vì không có tướng nên phiền não dứt, đây gọi là giải thoát. Khen ngợi Kinh Đại Niết Bàn này thời gọi là tán thán giải thoát. Đây gọi là Đại Bồ Tát an trụ mười pháp dầu được thấy Phật Tánh mà chẳng rõ ràng.

Này thiện nam tử! Như ông hỏi Thập Trụ Bồ Tát dùng con mắt gì mà thấy được Phật Tánh mà chẳng rõ ràng, Chư Phật dùng con mắt gì mà thấy đuợc Phật Tánh rõ ràng?

Này thiện nam tử! Do huệ nhãn mà thấy Phật Tánh thời chẳng được rõ ràng, dùng Phật nhãn mà thấy thời được rõ ràng. Vì hạnh Bồ Đề thời chẳng rõ ràng, nếu vô hành vô tác thời được rõ ràng. Trụ nơi Thập Trụ thời dầu thấy mà chẳng rõ ràng, nếu chẳng trụ chẳng đi thời thấy được rõ ràng.

Đại Bồ Tát vì nhân trí huệ nên thấy chẳng rõ ràng, Chư Phật vì dứt nhân quả nên thấy rõ ràng. Bậc nhất thiết giác gọi là Phật Tánh. Thập Trụ Bồ Tát chẳng được gọi là nhất thiết giác, nên dầu thấy mà chẳng rõ ràng.

Này thiện nam tử! Thấy có hai thứ: Một là con mắt thấy, hai là nghe thấy. Chư Phật con mắt thấy Phật Tánh như xem trái cây trong bàn tay. Thập Trụ Bồ Tát nghe thấy Phật Tánh nên chẳng rõ ràng. Thập Trụ Bồ Tát dầu có thể tự biết quyết định đặng Vô Thượng Bồ Đề, mà chẳng biết được tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.

Này thiện nam tử! Lại có con mắt ngó thấy: Như Chư Phật cùng Thập Trụ Bồ Tát, con mắt thấy Phật Tánh.

Lại có nghe thấy: Như tất cả chúng sanh nhẫn đến Cửu trụ Bồ Tát nghe thấy Phật Tánh. Bồ Tát nếu nghe tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, chẳng sanh lòng tin thời chẳng gọi là nghe thấy.

Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn thấy Như Lai, nên phải tu tập mười hai Bộ Kinh thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết.

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Tất cả chúng sanh chẳng biết được tâm tướng của Như Lai, phải quán tưởng thế nào để đuợc biết?

Phật bảo: Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh thật ra chẳng biết được tâm tướng của Như Lai.

Nếu muốn quan sát để được biết thời có hai nhân duyên: Một là con mắt thấy, hai là nghe thấy.

Nếu thấy thân nghiệp của Như Lai, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là con mắt thấy.

Nếu xem thấy khẩu nghiệp của Như Lai, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy.

Nếu thấy sắc mạo mà tất cả chúng sanh không sánh bằng được, nên biết rằng đây là Như Lai, đây là con mắt thấy.

Nếu nghe tiếng tâm vi diệu tối thắng chẳng đồng với tiếng tâm của chúng sanh, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy.

Nếu thấy thần thông của Như Lai hiện, thần thông này là vì chúng sanh hay là vì lợi dưỡng?

Nếu là vì chúng sanh mà chẳng vì lợi dưỡng, nên biết rằng đây là Như Lai, đây là con mắt ngó thấy.

Nếu xem thấy Như Lai lúc dùng tha tâm trí quán sát chúng sanh, vì lợi dưỡng Sông Hằng hay vì chúng sanh Sông Hằng?

Nếu vì chúng sanh mà chẳng vì lợi dưỡng, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy.

Tại sao Như Lai thọ thân này?

Cớ gì thọ thân?

Vì ai mà thọ thân?

Đây gọi là con mắt ngó thấy.

Nếu quan sát Như Lai Sông Hằng thế nào?

Cớ gì Sông Hằng?

Vì ai mà Sông Hằng?

Đây gọi là nghe thấy.

Dùng nghiệp ác nơi thân gia hại đó mà chẳng sân hận, nên biết rằng đây là Như Lai vậy, đây gọi là con mắt thấy.

Dùng nghiệp ác nơi miệng gia hại đó mà chẳng giận, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy.

Nếu thấy Bồ Tát lúc mới sanh, ở bốn phương đều đi bảy bước, các Thiên Thần cầm phan lọng, chấn động vô lượng vô biên Thế Giới, ánh sáng vàng chói rực khắp hư không, Long Vương dùng thần lực phun nước tắm rửa cho Bồ Tát, Chư Thiên hiện hình tiếp đỡ đảnh lễ, tiên A Tư Đà chắp tay cung kính, lớn khôn vất bỏ ngũ dục như bỏ nước miếng nước mũi.

Chẳng bị sự vui trong đời cám dỗ, xuất gia tu hành, thích ở chỗ vắng lặng, vì phá tà kiến nên khổ hạnh sáu năm, đối với chúng sanh bình đẳng không sai khác, tâm thường ở trong chánh định không bao giờ tán loạn, tướng hảo trang nghiêm nơi thân, đi đến chỗ nào những gò nỗng đều bằng, y phục cách rời nơi thân bốn tấc chẳng sa xuống.

Lúc đi nhìn thẳng chẳng ngó hai bên, vật thực của Phật ăn không có lỗi chẳng hoàn toàn, chỗ Phật ngồi đứng cỏ chẳng động loạn, vì điều phục chúng sanh nên qua Sông Hằng mà tâm không kiêu mạn, đây gọi là con mắt thấy.

Nếu nghe Bồ Tát đi bảy bước rồi xướng rằng: Nay thân này của ta là thân rốt sau cả.

A Tư Đà Tiên chắp tay nói rằng: Tâu Đại Vương! Thái Tử Tất Đạt Đa quyết định sẽ thành vô thượng bồ đề, trọn chẳng ở nhà làm Chuyển Luân Vương, vì Chuyển Luân Vương thân tướng chẳng rõ ràng, còn Thái Tử Tất Đại Đa tất cả tướng tốt nơi thân đều sáng rở, do đây quyết chắc sẽ được vô thượng bồ đề.

Lúc thấy người già bệnh chết, Bồ Tát nói rằng: Tất cả chúng sanh thật đáng xót thương, thường ở trong sanh, già, bệnh, chết mà chẳng biết quan sát, ta sẽ dứt trừ sự khổ ấy. Theo học định vô tưởng với Ngũ Thông Tiên Nhân là ông A La Lã, đã thành tựu rồi Bồ Tát bèn nói lỗi của môn định ấy.

Lại theo học định Phi Phi Tưởng với Tiên Nhân Uất Đà Dà, đã thành tựu rồi bèn nói định này chẳng phải Niết Bàn, chính là pháp sanh tử.

Sáu năm khổ hạnh không có kết quả: Tu khổ hạnh luống vô ích, nếu là hay thời ta đã được kết quả tốt, vì là hư vọng nên ta không được gì, đây gọi là tà thuật, chẳng phải là đạo chân chánh.

Lúc đã thành đạo, Phạm Thiên thỉnh: Ngửa mong Đức Như Lai vì chúng sanh mà Sông Hằng Cam Lộ vô thượng.

Phật bảo: Này Phạm Vương! Tất cả chúng sanh thường bị phiền não che đậy chẳng thể lãnh thọ lời dạy về pháp chân chánh của Phật.

Phạm Vương lại bạch: Thế Tôn! Tất cả chúng sanh phàm có ba hạng: Lợi căn, trung căn và hạ căn. Hạng lợi căn có thể lãnh thọ chánh pháp. Xin Đức Thế Tôn vì họ mà Sông Hằng.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần