Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Kiều Trần Như - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI NĂM

PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ  

PHẦN HAI  

Này thiện nam tử! Trong bệnh phong không có dầu, trong dầu không có bệnh phong, nên dầu có thể trị được bệnh phong. Hai thứ kia cũng như vậy.

Tất cả chúng sanh có ba thứ bệnh: Tham, sân và si.

Có ba thứ pháp dược trị được ba bệnh này: Bất tịnh quán là thuốc trị được bệnh tham, từ tâm quán là thuốc trị được bệnh sân, nhân duyên quán là thuốc trị được bệnh si.

Này thiện nam tử! Vì trừ tham nên quán pháp chẳng phải tham, vì trừ sân nên quán pháp chẳng phải sân, vì trừ si nên quán pháp chẳng phải si. Trong ba thứ bệnh không ba thứ thuốc pháp, trong ba thứ thuốc pháp không ba thứ bệnh.

Này thiện nam tử! Vì trong ba thứ bệnh không có ba thứ thuốc pháp, nên là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Trong ba thứ thuốc pháp không có ba thứ bệnh nên được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai vì tôi nói thường là vô thường.

Xin giải thích thế nào là thường, thế nào là vô thường?

Này thiện nam tử! Sắc ấm là vô thường, giải thoát sắc ấm là thường. Nhẫn đến thức ấm là vô thường, giải thoát thức ấm là thường. Nếu có người nào quán sắc nhẫn đến thức là vô thường, nên biết rằng người này chứng được pháp thường trụ.

Bạch Thế Tôn! Nay tôi đã biết pháp thường và pháp vô thường.

Này thiện nam tử! Ông rõ biết pháp thường và vô thường như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Nay tôi biết sắc ấm của tôi là vô thường, được giải thoát là thường, nhẫn đến thức cũng như vậy.

Lành thay! Này thiện nam tử! Nay ông đã đền xong thân này.

Đức Phật bảo Kiều Trần Như: Bà Trư Tra đã chứng quả A La Hán, ông nên ban cho Bà Trư Tra ba y và bát. Ngài Kiều Trần Như tuân lời Phật trao y bát cho Bà Trư Tra.

Lãnh y bát xong, Bà Trư Tra thưa rằng: Bạch Đại Đức Kiều Trần Như! Nay tôi do thân tệ ác này mà được quả lành.

Xin Đại Đức vì tôi đến bạch với Đức Thế Tôn: Tôi là người ác xúc phạm đến họ Cù Đàm của Đức Như Lai. Mong Đại Đức vì tôi mà sám hối tội này. Tôi cũng không thể ở lâu nơi thân ác độc này. Nay xin nhập Niết Bàn.

Ngài Kiều Trần Như liền đến bạch Phật: Thế Tôn! Tỳ Kheo Bà Trư Tra sanh lòng hổ thẹn, tự nói là hung dữ xúc phạm họ Cù Đàm của Đức Như Lai. Nay ông ấy muốn diệt thân, nhờ tôi sám hối.

Phật nói: Này Kiều Trần Như! Tỳ Kheo Bà Trư Tra đã thành tựu căn lành nơi vô lượng Phật quá khứ, nay thọ giáo với ta mà trụ đúng pháp, vì trụ đúng pháp nên chứng được chánh quả. Các ông phải cúng dường thân của ông ấy.

Ngài Kiều Trần Như nghe Phật dạy xong, đến nơi thân của Bà Trư Tra mà trần thuyết cúng dường. Lúc thiêu thân, Bà Trư Tra hiện các thứ thần thông.

Chúng ngoại đạo thấy việc này đồng to tiếng xướng rằng: Bà Trư Tra đã được chú thuật của Sa Môn Cù Đàm, chẳng bao lâu ông sẽ hơn Sa Môn Cù Đàm.

Lại có Phạm Chí Tiên Ni hỏi Phật: Thưa Cù Đàm! Cù Đàm có ngã không?

Đức Như Lai nín lặng.

Tiên Ni lại hỏi: Thưa Cù Đàm! Cù Đàm không có ngã ư?

Đức Như Lai cũng nín lặng. Tiên Ni hỏi luôn mấy lần như vậy, Đức Phật đều nín lặng.

Tiên Ni nói: Thưa Cù Đàm! Nếu tất cả chúng sanh có ngã khắp tất cả chỗ là một tác giả, cớ sao Cù Đàm nín lặng chẳng trả lời?

Phật nói: Này Tiên Ni! Ông nói ngã đó là khắp tất cả chỗ phải chăng?

Thưa Cù Đàm! Chẳng những là tôi nói, mà tất cả người trí cũng nói như vậy.

Này thiện nam tử! Nếu ngã đó cùng khắp tất cả chỗ lẽ ra phải đồng thời thọ báo trong Ngũ Đạo.

Nếu đồng thời thọ báo nơi Ngũ Đạo, hàng Phạm Chí các ông duyên cớ gì chẳng gây tạo những điều ác để khỏi địa ngục, mà lại tu những pháp lành để được thân Trời?

Thưa Cù Đàm! Ngã trong giáo pháp của chúng tôi có hai thứ: Một là ngã tác thân, hai là ngã thường thân. Vì ngã tác thân mà phải lìa nghiệp ác để khỏi địa ngục, phải tu những pháp lành để được sanh lên Trời.

Này thiện nam tử! Như ông đã nói ngã khắp tất cả chỗ. Ngã đó nếu ở trong tác thân thời là vô thường.

Nếu trong tác thân không có ngã sao lại nói là khắp?

Thưa Cù Đàm! Ngã của chúng tôi lập cũng ở trong tác thân, mà cũng là thường trụ. Như người lúc để lửa cháy nhà, chủ nhà chạy ra ngoài, chẳng thể nói rằng nhà cửa bị cháy chủ nhà cũng bị cháy. Ngã này cũng như vậy, đương lúc tác thân vô thường, ngã này xuất ra đi, nên ngã này cũng là khắp, cũng là thường.

Này thiện nam tử! Như lời ông nói ngã đó cũng khắp cũng thường, nghĩa này không đúng.

Vì khắp có hai thứ: Thường và vô thường. Lại có hai thứ. Sắc và vô sắc. Do đây nên nếu nói rằng khắp tất cả thời cũng là thườntg cũng là vô thường, cũng là sắc cũng là vô sắc.

Nếu nói chủ nhà chạy ra khỏi nên chẳng gọi là vô thường, nghĩa này chẳng đúng. Vì nhà chẳng gọi là chủ, chủ chẳng gọi là nhà. Cái bị cháy khác, người chạy ra khác, nên được như vậy. Ngã này thời chẳng như vậy, vì ngã là sắc, sắc là ngã, ngã là vô sắc, vô sắc là ngã, sao lại nói rằng đương lúc sắc thân vô thường ngã xuất ra khỏi.

Này thiện nam tử! Ý ông nếu cho rằng: Tất cả chúng sanh đồng một ngã, thời trái với pháp thế gian và xuất thế gian. Vì pháp thế gian có cha mẹ, con trai, con gái.

Nếu ngã là một, thời cha là con trai, con trai là cha, mẹ là con gái, con gái là mẹ, thù là thân, thân là thù, đây là kia, kia là đây. Nên nếu nói rằng tất cả chúng sanh đồng một ngã thời là trái với pháp thế gian và xuất thế gian.

Tiên Ni nói: Tôi chẳng nói tất cả chúng sanh đồng một ngã. Mà tôi nói mỗi người đều riêng có một ngã.

Này thiện nam tử! Nếu ông nói một người đều riêng có một ngã, đây là nhiều ngã, thời không đúng nghĩa. Vì như trước kia ông nói, ngã khắp tất cả chỗ.

Nếu đã khắp tất cả thời tất cả chúng sanh lẽ ra phải đồng một nghiệp căn: Lúc được Trời mà thấy thời lúc được Phật cũng thấy, lúc được thân Trời làm, thời lúc được Phật cũng làm, nghe biết và nhẫn đến tất cả pháp cũng như vậy.

Nếu được thân Trời mà thấy chẳng phải là được Phật mà thấy thời chẳng nên nói rằng ngã khắp tất cả chỗ. Nếu ngã chẳng khắp thời là vô thường.

Thưa Cù Đàm! Ngã của tất cả chúng sanh khắp tất cả. Còn pháp cùng phi pháp chẳng khắp tất cả. Do nghĩa này nên tác dụng của Phật khác, tác dụng của Trời khác. Chẳng nên nói rằng lúc Phật thấy lẽ ra Trời cũng thấy, lúc Phật nghe Trời cũng nên nghe.

Này thiện nam tử! Pháp và phi Pháp chẳng phải là nghiệp làm ra ư?

Thưa Cù Đàm! Là nghiệp làm ra.

Này thiện nam tử! Nếu pháp cùng phi pháp là nghiệp làm ra thời là đồng pháp, sao nói rằng khác. Vì chỗ nghiệp của Phật có ngã của Trời, chỗ ngã của Trời có ngã của Phật, do đây nên lúc Phật tác dụng, Trời cũng tác dụng, pháp và phi pháp cũng phải như vậy.

Này thiện nam tử! Nếu tất cả chúng sanh pháp cùng phi pháp là như vậy, thời quả báo lẽ ra chẳng khác.

Này thiện nam tử! Từ nơi nhân sanh ra quả, nhân này trọn chẳng suy nghĩ phân biệt ta chỉ nên là quả Bà La Môn, chẳng làm quả cho Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà.

Vì từ nhân sanh ra quả trọn chẳng trở ngại đối với bốn giòng như vậy. Pháp cùng phi pháp cũng như vậy, không thể phân biệt ta chỉ nên làm quả Phật, chẳng làm quả Trời, hoặc ta chỉ làm quả Trời chẳng làm quả Phật. Vì nghiệp bình đẳng vậy.

Thưa Cù Đàm! Như trong một nhà có trăm ngàn ngọn đèn, ngọn đèn có khác nhưng ánh sáng thời không khác. Ngọn đèn khác nhau dụ cho pháp cùng phi pháp, ánh sáng không sai khác dụ cho ngã của chúng sanh.

Này thiện nam tử! Ông đem đèn sáng để dụ cho ngã đó, không được đúng nghĩa. Vì đèn khác nhà khác. Ánh sáng của đèn cũng ở bên ngọn đèn mà cùng khắp trong nhà.

Ngã của ông nói nếu đồng như vậy thời bên pháp và phi pháp đều phải có ngã, trong ngã cũng phải có pháp và phi pháp đều phải có ngã, trong ngã cũng phải có pháp và phi pháp.

Nếu pháp cùng phi pháp không có ngã, thời chẳng được nói rằng ngã khắp tất cả chỗ. Nếu đều chung có cả, đâu đặng dùng đèn và ánh sáng để làm ví dụ.

Này thiện nam tử! Nếu ý của ông cho rằng ngọn đèn cùng ánh sáng thiệt khác nhau, duyên cớ gì ngọn đèn thêm thời ánh sáng nhiều, ngọn đèn lụn thời ánh sáng mất.

Do đây chẳng nên đem pháp cùng phi pháp dụ như ngọn đèn, ánh sáng không khác dụ cho ngã. Vì pháp và phi pháp cùng với ngã ba thứ là một.

Thưa Cù Đàm! Ngài dẫn ví dụ ngọn đèn, việc đó chẳng tốt. Vì ví dụ ngọn đèn nếu là tốt thời tôi đã dẫn trước rồi.

Như ví dụ đó chẳng tốt cớ sao Ngài lại nói?

Này thiện nam tử! Ví dụ ta dẫn ra đó đều chẳng làm tốt cùng chẳng tốt, đó là theo ý của ông để nói. Trong ví dụ đó cũng trình bày hai nghĩa rời ngoài ngọn đèn có ánh sáng và chính nơi ngọn đèn có ánh sáng, ý ông chẳng bình đẳng nên ông nói ngọn đèn dụ cho pháp cùng phi pháp, ánh sáng thời dụ cho ngã.

Do đây nên ta trách ông: Ngọn đèn chính là ánh sáng, rời ngọn đèn có ánh sáng. Trong pháp có ngã, trong ngã có pháp, trong phi pháp có ngã, trong ngã có phi pháp. Nay cớ gì ông chỉ nhận lấy một bên bỏ một bên. Ví dụ như vậy là chẳng tốt đối với ông, nên nay ta trở lại dẫn ví dụ đó để dạy bảo ông.

Này thiện nam tử! Ví dụ như vậy thời chẳng thành, vì chẳng thành ví dụ nên với ta thời tốt, mà chẳng tốt đối với ông.

Này thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng nếu tôi chẳng tốt thời Ngài cũng chẳng tốt. Ý nghĩ này chẳng đúng, vì thấy người đời dùng sức mình để hại lấy mình, tự mình làm ra mà người khác thọ dụng. Ví dụ của ông dẫn ra đó cũng như vậy. Nơi ta thời tốt, nơi ông thời chẳng tốt.

Thưa Cù Đàm! Vừa rồi Ngài trách tôi tâm chẳng bình đẳng, nay lời nói của Ngài cũng chẳng bình đẳng. Vì Ngài lấy tốt về mình, mà chẳng tốt lại để cho tôi. Cứ đây mà suy thời thật là chẳng bình đẳng.

Này thiện nam tử! Sự bất bình của ta có thể phá được sự bất bình của ông, do đây nên ông được bình, sự bất bình của ta chính là tốt vậy. Sự bất bình của ta phá sự bất bình của ông, làm cho ông được bình cũng chính là ta bình đẳng, vì đồng được bình đẳng với các Thánh Nhân.

Thưa Cù Đàm! Ngã thường là bình đẳng, sao Ngài lại nói phá hoại sự bất bình của tôi.

Tất cả chúng sanh bình đẳng có ngã sao Ngài nói rằng ngã là bất bình?

Này thiện nam tử! Ông cũng có nói rằng: Sẽ thọ quả địa ngục, sẽ thọ quả ngạ quỉ, sẽ thọ quả súc sanh, sẽ thọ quả nhân, Thiên.

Nếu ngã đã khắp trong Ngũ Đạo, sao ông lại nói sẽ thọ quả nơi các loài?

Ông cũng nói rằng cha mẹ hòa hiệp rồi sau mới sanh con. Nếu con đã có trước, sao ông lại nói hòa hiệp rồi mới có. Nếu một người có thân trong ngũ đạo, đã là trước có thân trong ngũ đạo, duyên cớ gì lại vì thân mà tạo nghiệp. Do nghĩa trên đây nên là chẳng bình đẳng.

Này thiện nam tử! Ý của ông nếu cho rằng ngã là tác giả, thời cũng chẳng đúng. Vì nếu ngã là tác giả, duyên cớ gì ngã lại tự làm ra sự khổ. Nhưng hiện nay chúng sanh thiệt có bị khổ nên biết rằng ngã chẳng phải tác giả.

Nếu ông nói sự khổ này chẳng phải ngã làm ra, chẳng do nơi nhân sanh, thời tất cả pháp cũng phải như vậy, chẳng do nhân sanh, cớ gì lại nói là ngã làm ra.

Này thiện nam tử! Sự khổ vui của chúng sanh thiệt do nơi nhân duyên. Sự khổ vui này có thể làm chúng sanh lo và mừng. Lúc lo không mừng, lúc mừng không lo, hoặc mừng hoặc lo, người trí đâu nên nói đó là thường trụ.

Này thiện nam tử! Ông nói ngã là thường. Nếu ngã là thường, sao lại nói có mười thời kỳ sai khác. Đã là thường lẽ ra chẳng có thời kỳ đậu thai nhẫn đến thời kỳ già.

Phật Pháp thường như hư không còn chẳng có một thời kỳ, huống lại có cả mười thời kỳ! Nếu ngã chẳng phải là thời kỳ đậu thai nhẫn đến chẳng phải thời kỳ già, sao lại nói có mười thời kỳ sai khác.

Này thiện nam tử! Nếu ngã là tác giả, ngã này cũng có lúc thạnh lúc suy, chúng sanh cũng có lúc thạnh lúc suy. Nếu ngã đã như vậy sao lại là thường.

Này thiện nam tử! Nếu ngã là tác giả, sao một người lại có khôn lanh, có đần độn?

Nếu ngã là tác giả, ngã này có thể làm ra thân nghiệp và khẩu nghiệp.

Thân nghiệp và khẩu nghiệp nếu là ngã làm ra, sao miệng lại nói rằng không có ngã ư?

Sao lại tự nghi có ngã hay không có ngã?

Này thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng rời ngoài nhãn căn có sự thấy.

Lời này không đúng, vì nếu ngoài nhãn căn đã riêng có sự thấy thời cần gì đến nhãn căn này?

Như nhãn căn, nhĩ căn v.v… cũng như vậy. Nếu ý ông cho rằng dầu ngã có thể thấy nhưng cần phải do nhãn căn mới thấy, nghĩa này cũng chẳng đúng.

Như có người nói rằng bông Tu Mạn Na có thể đốt cháy cả thôn xóm lớn, tại sao có thể cháy?

Vì lửa có thể cháy. Ông lập ngã có thể thấy cũng như vậy.

Thưa Cù Đàm! Như người cầm liềm thời có thể cắt cỏ. Ngã nhân nơi năm căn mà có thể thấy nghe nhẫn đến xúc cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Liềm cùng người đều khác nhau, nên người cầm liềm thời cắt được cỏ.

Rời ngoài năm căn không có ngã riêng khác, sao lại nói rằng ngã nhân nơi năm căn mà có công năng?

Này thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng vì cầm liềm nên có thể cắt cỏ, ngã cũng như vậy.

Như thế thời ngã có tay hay không tay?

Nếu có tay sao ngã chẳng tự cầm?

Nếu ngã không có tay sao lại nói rằng ngã là tác giả?

Này thiện nam tử! Có thể cắt cỏ đó chính là cái liềm, chẳng phải ngã cũng chẳng phải người. Nếu ngã và người có thể cắt cớ sao lại nhân nơi cái liềm!

Này thiện nam tử! Người có hai tác động: Một là nắm lấy cỏ, hai là cầm cái liềm. Cái liềm này thời chỉ có công năng xén cắt.

Chúng sanh ngó thấy các pháp cũng như vậy: Nhãn căn có thể thấy sắc, từ nhân duyên hòa hiệp mà có ra sự thấy đó.

Nếu đã từ nhân duyên hòa hiệp, người trí sao lại nói là có ngã?

Này thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng thân làm mà ngã thọ, cũng không đúng nghĩa. Vì trong đời không bao giờ thấy Trời tạo nghiệp mà Phật thọ quả.

Nếu nói rằng chẳng phải là thân làm, ngã chẳng phải thọ, cớ sao các ông lại từ nơi nhân duyên tu hành để cầu giải thoát?

Thân này của ông trước kia chẳng phải nhân duyên sanh. Khi được giải thoát rồi cũng lẽ ra không do nhân duyên mà lại sanh ra thân. Như thân, tất cả phiền não cũng như vậy.

Thưa Cù Đàm! Ngã có hai thứ: Một là hữu tri, hai là vô tri. Ngã vô tri có thể thọ lấy thân, ngã hữu tri có thể rời bỏ thân. Như cái bình đất, khi đã bị nung rồi thời mất màu sắc đất, chẳng còn sanh trở lại, phiền não của người trí cũng như vậy, đã dứt, mất rồi thời trọn chẳng còn sanh.

Này thiện nam tử! Ông nói là hữu tri đó, là trí có thể biết hay ngã có thể biết?

Nếu trí có thể biết sao lại nói rằng ngã là hữu tri?

Nếu ngã có thể biết cớ gì phải dùng phương tiện tu hành để cầu có trí?

Nếu ý ông cho rằng ngã nhân nơi trí mà có biết thời đồng với điều dụ bông đốt cháy trước kia.

Này thiện nam tử! Như cây gai tánh của nó tự có thể đâm, chẳng được nói rằng cây cầm gai để đâm.

Trí cũng như vậy: Trí tự có thể hiểu biết.

Sao lại nói rằng ngã cầm lấy trí để biết?

Này thiện nam tử! Như trong pháp của ông nói ngã được giải thoát, là ngã vô tri được giải thoát, hay là ngã hữu tri được?

Nếu là ngã vô tri được thời phải biết rằng vẫn còn đủ phiền não. Nếu là ngã hữu tri được thời nên biết rằng đã có ngũ căn, vì ngoài ngũ căn không còn có sự biết.

Nếu đã đủ ngũ căn thời sao lại nói là được giải thoát?

Nếu cho rằng tánh của ngã này thanh tịnh rời ngoài ngũ căn, sao lại nói rằng ngã khắp trong ngũ đạo, duyên cớ gì tu các pháp lành để được giải thoát?

Này thiện nam tử! Như có người nhổ gai hư không.

Ông cũng như vậy: Nếu ngã đã thanh tịnh sao lại nói rằng dứt các phiền não?

Nếu ý ông cho rằng chẳng do nhân duyên mà được giải thoát, cớ gì tất cả chúng sanh lại chẳng được?

Thưa Cù Đàm! Nếu không có ngã thời cái gì có thể ghi nhớ?

Này thiện nam tử! Nếu có ngã cớ gì lại quên?

Này thiện nam tử! Nếu nhớ là ngã, cớ gì lại nhớ những niệm ác, nhớ chỗ chẳng đáng nhớ, chẳng nhớ chỗ đáng nhớ?

Thưa Cù Đàm! Nếu không có ngã thời cái gì thấy, cái gì nghe?

Này thiện nam tử! Trong có sáu căn, ngoài co sáu trần, căn trần hòa hiệp sanh ra sáu thức. Sáu thức này theo nhân duyên mà được có tên. Như một thứ lửa do nơi cây mà có lửa thời gọi là lửa cây, nhân nơi cỏ thời gọi là lửa cỏ, nhân nơi trấu thời gọi là lửa trấu, nhân nơi phân bò thời gọi là lửa phân bò.

Ý thức của chúng sanh cũng như vậy: Nhân nơi nhãn căn, sắc trần, ánh sáng và tác ý thời gọi đó là nhãn thức. Nhãn thức này chẳng ở trong nhãn căn nhẫn đến chẳng ở trong tác ý, do bốn thứ hòa hiệp nên sanh ra thức này. Nhẫn đến ý thức cũng lại như vậy.

Nếu đã là nhân duyên hòa hiệp mà sanh ra, người trí chẳng nên nói rằng sự thấy chính là ngã, sự nghe nhẫn đến chạm xúc chính là ngã.

Này thiện nam tử! Do nghĩa trên đây nên ta nói rằng nhãn thức nhẫn đến ý thức, tất cả các pháp đều là như huyễn.

Thế nào là như huyễn?

Vì trước không nay mới có, đã có rồi trở lại không. Như tỏi, bột, mật, gừng, tiêu, tất lăng, nho, hồ đào, thạch lựu, hột quì, các thứ ấy hòa hiệp lại gọi là huờn thuốc hoan hỷ. Rời ngoài sự hòa hiệp này thời không có huờn hoan hỷ.

Do căn nơi trong, trần nơi ngoài mà gọi là chúng sanh, là ngã, nhân, sĩ phu. Ngoài căn và trần này không riêng có chúng sanh, ngã, nhân, sĩ phu.

Thưa Cù Đàm! Nếu không có ngã, sao lại nói rằng: Ta thấy, ta nghe, ta khổ, ta vui, ta lo, ta mừng?

Này thiện nam tử! Nếu cho rằng ta thấy, ta nghe v.v… gọi là có ngã đó, cớ gì người đời, lại nói rằng tội của người làm ra chẳng thấy nghe?

Như bốn đoàn binh hiệp lại gọi là quân đoàn, bốn đoàn binh chẳng gọi là một, mà cũng nói rằng quân ta mạnh mẽ quân ta thắng địch.

Nội căn ngoại trần hòa hiệp làm ra cũng như vậy, dầu chẳng phải là một, nhưng cũng được nói rằng: Ta làm, ta thọ, ta thấy, ta nghe, ta khổ, ta vui.

Thưa Cù Đàm! Cứ như lời Ngài:

Nội căn và ngoại trần hòa hiệp, thời ai ra tiếng nói rằng: Ta làm ta thọ?

Này Tiên Ni! Từ ái vô minh nhân duyên sanh ra nghiệp, từ nghiệp sanh ra hữu, từ hữu xuất sanh vô lượng tâm sở, tâm sở sanh ra giác quán, giác quán động đến hơi gió, hơi gió theo tâm chạm xúc cổ họng lưỡi răng môi, chúng sanh điên đảo phát ra tiếng nói rằng ta làm, ta thọ, ta thấy, ta nghe.

Này thiện nam tử! Như cái linh đầu cột phướn, do gió động bèn phát ra tiếng, gió lớn thời tiếng lớn, gió nhỏ thời tiếng nhỏ, không có tác giả. Lại như sắc nóng ném vào trong nước phát ra nhiều tiếng, nơi đây thật ra cũng không có tác giả.

Này thiện nam tử! Phàm phu không thể tư duy phân biệt việc như vậy, nên nói rằng có ngã và ngã sở, ngã tác, ngã thọ.

Như Cù Đàm nói không có ngã và ngã sở, duyên cớ gì Ngài lại nói có thường, lạc, ngã, tịnh?

Này thiện nam tử! Ta chẳng nói sáu căn sáu trần và sáu thức là thường, lạc, ngã, tịnh. Mà ta tuyên bố rằng diệt sáu thức do nội căn ngoại trần sanh ra gọi đó là thường, do thường đây mà gọi là ngã, vì có thường ngã nên gọi là lạc, vì có thường lạc ngã nên gọi là tịnh.

Này thiện nam tử! Chúng sanh nhàm sự khổ mà dứt khổ nhân này, được xa lìa tự tại đây gọi là vô ngã. Do nhân duyên này nên nay ta thiết thiệt nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh.

Tiên Ni thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Xin đức đại từ dạy bảo cho tôi phải làm thế nào để được thường, lạc, ngã, tịnh như vậy.

Này thiện nam tử! Từ trước đến nay tất cả thế gian có đủ sự ngã mạn lớn, lại tăng trưởng ngã mạn, cũng lại làm ra mạn nhân, mạn nghiệp, nên nay thọ lấy quả báo của mạn, không thể xa lìa tất cả phiền não để được thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu chúng sanh muốn được xa lìa tất cả phiền não, trước hết phải xa lìa ngã mạn.

Bạch Thế Tôn! Phải lắm! Phải lắm! Đúng như lời Phật dạy. Từ trước tôi có ngã mạn, do ngã mạn nên gọi Đức Như Lai là Cù Đàm.

Nay tôi đã lìa ngã mạn đó nên thành tâm thỉnh cầu giáo pháp: Làm thế nào sẽ được thường, lạc, ngã, tịnh.

Này thiện nam tử! Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ giải thuyết cho ông.

Này thiện nam tử! Nếu người có thể chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải chúng sanh, xa lìa pháp này.

Bạch Thế Tôn! Tôi đã hiểu rõ đã được chánh pháp nhãn.

Này thiện nam tử! Do đâu mà ông nói rằng đã biết, đã hiểu, đã được chánh pháp nhãn.

Bạch Thế Tôn! Sắc ấm chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải chúng sanh, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Tôi quán sát như vậy mà được chánh pháp nhãn.

Bạch Thế Tôn! Nay tôi rất muốn xuất gia tu học, xin Đức Như Lai nhận cho.

Đức Phật gọi: Thiện Lai Tỳ Kheo! Liền đó Tiên Ni được đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh chứng quả A La Hán.

Trong chúng ngoại đạo lại có Phạm Chí họ Ca Diếp lên tiếng rằng: Thưa Cù Đàm! Thân tức là mạng, hay là thân khác mạng khác?

Đức Như Lai nín lặng. Phạm Chí hỏi lần thứ hai lần thứ ba, Đức Như Lai vẫn nín lặng.

Phạm Chí lại nói: Thưa Cù Đàm! Như người lúc chết chưa thọ lấy thân sau, chặn giữa đó đâu được chẳng gọi rằng thân khác mạng khác.

Nếu là khác tại sao Cù Đàm nín lặng chẳng trả lời?

Này thiện nam tử! Ta nói thân và mạng đều từ nhân duyên, chẳng phải là không nhân duyên. Như thân mạng tất cả pháp cũng như vậy.

Thưa Cù Đàm! Tôi thấy thế gian cũng có pháp không từ nhân duyên.

Này Phạm Chí! Ông thấy thế gian có pháp chẳng từ nhân duyên như thế nào?

Tôi thấy lửa lớn đốt cháy lùm cây, gió thổi bức ngọn lửa rớt ở chỗ khác, đây há chẳng gọi là không nhân duyên ư?

Này thiện nam tử! Lửa này cũng từ nhân mà sanh, chẳng pải là không nhân.

Thưa Cù Đàm! Lúc ngọn lửa bức bay đi chẳng nhân củi than, sao lại nói rằng từ nơi nhân mà sanh.

Này thiện nam tử! Dầu không củi than nhưng nhân gió mà đi, do gió nên ngọn lửa đó chẳng tắt.

Thưa Cù Đàm! Nếu người chết lúc chưa thọ thân sau, thọ mạng ở chặn giữa cái gì làm nhân duyên?

Này Phạm Chí! Chính vô minh cùng ái làm nhân duyên mà thọ mạng này được còn.

Này thiện nam tử! Vì có nhân duyên nên thân là mạng, mạng là thân, vì có nhân duyên nên thân khác, mạng khác. Người trí chẳng nên một bề nói rằng thân khác mạng khác.

Bạch Thế Tôn! Xin giải thuyết cho tôi rõ biết được nhân quả.

Này Phạm Chí! Nhân là ngũ ấm, quả cũng là ngũ ấm.

Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh chẳng đốt lửa thời không khói.

Bạch Thế Tôn! Tôi đã hiểu rồi.

Này thiện nam tử! Ông hiểu biết như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Lửa là nói phiền não có thể đốt cháy nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, Nhân Thiên.

Khói là nói quả báo phiền não: Vô thường bất tịnh hôi nhơ đáng ghét đáng nhàm. Nếu chúng sanh chẳng khởi phiền não thời không có quả báo của phiền não. Do đây nên Đức Như Lai nói không đốt lửa thời không có khói.

Bạch Thế Tôn! Tôi đã được chánh kiến xin thương xót cho tôi xuất gia. Đức Phật bảo Kiều Trần Như cho Phạm Chí này xuất gia thọ giới. Ngài Kiều Trần Như tuân lời Phật hòa hiệp chúng Tăng cho Phạm Chí xuất gia thọ giới Cụ Túc. Năm ngày sau, Phạm Chí này chứng được A La Hán.

Trong chúng ngoại đạo lại có Phạm Chí Phú Na lên tiếng rằng: Thưa Cù Đàm! Ngài thấy thế gian là pháp thường trụ mà nói là thường phải chăng?

Nghĩa như vậy là thiệt hay hư?

Là thường hay vô thường?

Là cũng thường, vô thường?

Là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường?

Là hữu biên, là vô biên?

Là cũng hữu biên cũng vô biên?

Là chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên?

Là thân là mạng?

Thân khác mạng khác?

Như Lai sau khi diệt độ, như mà đi hay chẳng như mà đi?

Cũng như mà đi cũng chẳng như mà đi?

Chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi?

Này Phú Na! Ta chẳng nói thế gian là thường là hư là thiệt là vô thường v.v… nhẫn đến cũng chẳng nói chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi.

Thưa Cù Đàm! Nay thấy tội lỗi gì mà Ngài chẳng nói như vậy?

Này Phú Na! Nếu có người nói rằng thế gian là thường, chỉ đây là chân thật ngoài ra đều là vọng ngữ. Quan niệm này gọi là kiến, chỗ bị thấy gọi là kiến hành, gọi là kiến nghiệp, gọi là kiến trước, gọi là kiến phược, gọi là kiến khổ, gọi là kiến thủ, gọi là kiến bố, gọi là kiến nhiệt, gọi là kiến triền.

Này Phú Na! Phàm phu bị kiến chấp ràng buôc nên không thể xa lìa sanh già, bệnh, chết mà lưu chuyển trong sáu đường, thọ vô lượng sự khổ. Nhẫn đến chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi cũng như vậy.

Này Phú Na! Ta thấy kiến chấp này có lỗi như vậy, nên ta chấp trước cũng chẳng nói với người.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần