Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nghi Quỹ - Phẩm Chín - Phẩm Nhất Thiết Pháp Hành Nghĩa - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thiên Tức Tai, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG

BỒ TÁT TẠNG VĂN THÙ SƯ LỢI

CĂN BẢN NGHI QUỸ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống  

PHẨM CHÍN

PHẨM NHẤT THIẾT

PHÁP HÀNH NGHĨA  

TẬP HAI  

Nay Ta lại nói tướng mạo của người hiền thiện, trì tụng tu hành nơi Chân Ngôn Hạnh được thành tựu nghĩa, pháp của Phẩm Thượng Trung Hạ.

Nếu lại có người thuộc dòng tộc cao quý, chủng tính thanh tịnh, thân tướng khác lạ hiếm có, sắc như vàng ròng, đầu như dù lọng, tóc màu xanh biếc, mặt như trăng đầy, tướng trán rộng rãi bằng phẳng, lông mày chẳng tạp loạn, mắt dài mà hồng, lông mi chẳng giao tạp.

Mũi thẳng như ống trúc, màu môi đỏ đẹp, lưỡi như cánh sen, răng đều trắng đẹp, tướng râu xanh kín, cằm tròn, vòm miệng sâu, tóc trên đỉnh đầu xoay theo bên phải, tướng tai rũ xuống bên dưới, có tinh thần, lại dũng mãnh, lời nói đáng yêu ái ngữ không có giận dữ, ít tham lìa dục, thường ưa thanh tịnh, thích mặc áo đẹp, ưa ăn vị ngon.

Tịnh Hạnh tự xem xét bản thân, nói lời chân thật, quy trọng Tam Bảo, cúng dường Hiền Thánh, hiếu thuận với cha mẹ, thương xót hữu tình, trí tuệ sâu sắc, lại được sống lâu, tu hành quyết chí tinh tiến chẳng lui, ưa cầu địa vị của Bồ Tát Ma Ha Tát cho đến địa vị Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Người thuộc nhóm này quyết định thành tựu pháp của Thượng Phẩm, ắt hay hiểu thấu nghĩa thâm sâu của tất cả Nghi Quỹ.

Lại nữa, có người hoặc Sát Đế Lợi Kṣatriya, với Bà La Môn Brāhmaṇa, các chủng tộc thanh tịnh, đầy đủ tướng người, thân màu tía hoặc màu trắng, ức ngực tròn đầy, tướng vú nhô cao, lông xoắn vòng theo bên phải, bụng lớn rốn sâu, eo lưng to rộng, hai vai đầy đặn ngang bằng, hai nách hai hông sườn như Vua Sư Tử.

Bàn tay cánh tay dài chẳng hiện gân mạch, trên dưới tương xứng, chẳng lùn chẳng cao, đủ tâm dũng mãnh, ưa hạnh bí mật, thích nơi trì giới, lại ưa bố thí, ngôn hạnh chân thật.

Thương xót tất cả, học pháp không có sợ hãi, luôn ưa thích trí của thế gian xuất thế gian, phát tâm bồ đề, thường cúng dường Tam Bảo, cũng đủ phước đức lớn, siêng hành tinh tiến, tu trì chẳng lùi. Người có tướng này đối với Pháp Trung Phẩm, quyết định thành tựu.

Lại nữa, có người chủng tính thanh tịnh, đầy đủ thân chi không có thiếu không có giảm, hoặc màu tía hoặc màu trắng, trơn bóng béo tốt, chẳng quá mập gầy, rất thuận phần bên dưới mà có đặc thù, yeo thân to rộng, tướng bắp đùi tròn đầy.

Ống chân, đầu gối trên dưới chẳng cong lệch như gót chân của vua nai, hai tướng ẩn kín đầy đủ viên mãn, bên trong lòng bàn tay, bàn chân màu hồng mịn màng có tướng bánh xe cát tường, tướng cây phướng, tướng lầu gác trên cửa, tướng con cá, tướng cành phan.

Tướng hoa Ưu Bát La Utpala: Hoa sen xanh… các tướng như vậy thảy đều nghiêm đẹp.

Lại nữa, ưa thích thanh tịnh chẳng lẫn lộn với người ác, ít tham sân si, có phước đức lớn, thường hành từ mẫn thương yêu giúp đỡ người khác, ưa hành bố thí, cúng dường Tam Bảo, cũng lại cúng dường Tam Thập Tam Thiên Trāyastriṃśatdeva, đối với pháp thế xuất thế tinh tiến tu tập. Người thuộc nhóm tướng này đối với pháp của Phẩm thứ ba, quyết định thành tựu.

Lại nữa, có người phát tâm Bồ Đề Bodhi citta, Tu Bồ Đề Hạnh Bodhi caryā gom đủ tướng màu nhiệm của ba Phẩm như trên, lại có đủ mọi loại công đức, từ, bi, hỷ, xả, dũng mãnh tinh tiến tu tập Đại Minh Đà La Ni, chí thực hành chẳng lùi, không có sợ, không có lo ngại, quyết định vượt qua các người tu hành, đắc được pháp thành tựu tốt thượng bậc nhất.

Lúc trước Ta đã nói Trì Tụng Hành Nhân do phước của đời trước cho nên đủ các tướng màu nhiệm, mà nơi tu hành quyết định thành tựu.

Lại nữa, có tinh tú cát tường, thời phần cát tường, ở một sát na, một cái nháy mắt, một hơi thở… luân chuyển ven Trời soi xét lâm cố thế gian. Hết thảy chúng sinh khi sinh ra mà gặp thời phần này thì có đại cát tường, được phước đức lớn, tu các đại pháp quyết định thành tựu.

Nếu có chúng sinh không có căn lành của đời trước, nhiều nghiệp ác, cho nên ngay lúc sinh ra, gặp tinh tú ác, quyết định không có phước, các căn thiếu hụt chẳng đủ tướng người, chỗ tu đại pháp quyết định chẳng thể được thành tựu.

Nếu lại khi sinh ra ngay lúc sáng sớm, gặp nhóm Quỷ Tú Puṣya, Khuê Tú Revati, Trương Tú Pūrva phalguni, Tinh Tú Maghā, Kháng Tú Svāti, Phòng Tú Anūrādhā, Giác Tú Citrā, Tất Tú Rohiṇi, Mão Tú Kṛtikā… với Mặt Trời mới mọc, đồng thời soi xét thì chỗ làm, chỗ tu của người này đều được thành tựu.

Lại vào lúc sáng sớm với lúc giữa ngày giờ Ngọ kèm tại kỳ Bạch Nguyệt, gặp Kim Tinh Śukra, Mộc Tinh Vṛhaspati, Thủy Tinh Budha. Nhóm Tú Diệu này có thế lực lớn soi xét tất cả chúng sinh trong thế gian. Nếu người sinh vào lúc này thì chỗ tu Nghiệp thiện với tu hành trì tụng Đại Minh Đà La Ni, tất cả sự nghiệp quyết định thành tựu.

Lại nữa, Kim Tinh, Một Tinh, Thủy Tinh này tùy có một ngôi sao cũng với Mặt Trời Āditya, cùng với mặt trăng Candra đồng cư phương sở soi sét người sinh ra. Sau khi người này sinh ra ắt đại phú quý, thọ mệnh lâu dài, được đại tự tại, tất cả nhìn thấy tôn trọng.

Lại nữa, có người sinh ra sau giữa ngày sau giờ Ngọ, lúc Mặt Trời lặn… mà người sinh ra ấy ở thời phần này gặp ác tinh soi xét phương sở. Ác tinh là Thổ Tinh Śanaiścara, Hoả Tinh Aṅgāraka, La Hầu Tinh Rāhu, Kế Đô Tinh Ketu, Đa La Tinh Tārā với ngôi sao của nhóm Hắc Ám Lý Sắt Tra Kṛṣṇāriṣṭa.

Nhóm tinh tú như vậy cũng chẳng phải là thật ác. Nếu là người Thượng Thượng Phẩm có sức căn lành của đời trước, đầy đủ Phước Tuệ, khi sinh ra mà gặp giờ ấy thì đối với phước đức lớn, chuyển tăng uy thế.

Nếu là Trung Phẩm thì đối với việc thiện ác đều giảm đi một nửa. Nếu là Hạ Phẩm thì căn lành bị kém đi, với có nghiệp của đời trước. Người như vậy khi sinh ra mà gặp giờ ấy thì không có phước đức kèm không có Trí Tuệ, chẳng tu nghiệp Thiện, nhiều tham sân si.

Lại ở giờ này, gặp trời tối tăm mù mịt, gió mưa bạo ác, ánh chớp sáng lòe, sấm sét chấn động lớn, tuôn mưa đá xuống dưới, màu ở trong mây hoặc biến thành đỏ hồng… đây đều là điềm rất xấu.

Nếu vào giờ sinh, gặp hiện tượng này thì người ấy bị thiếu hụt các căn, dung mạo xấu xí, thân bị cong gù, ghẻ chóc đầy dẫy, không có chủ, không có chỗ nương cậy, nghèo túng hèn mọn. Hoặc thọ nhận giới luật thì vi phạm chẳng giữ được, Thánh Hiền thương xót cho sự rơi đọa ấy.

Người như vậy, đối với điều ác thì tăng thêm, đối với điều thiện thì chuyển lùi, tất cả cát tường hoàn toàn không có chút phần, đối với hành nghiệp tu tập Chân Ngôn thì như người mù điếc chẳng thấy chẳng nghe. Giả sử được nghe thấy cũng chẳng thể sinh niềm tin. Việc như vậy, nói chẳng thể hết.

Lại nữa, chúng sinh như vậy do ít phước cho nên hoặc bị tất cả Bộ Đa Bhūta với hàng Ma Đa La Mātara, các quỷ thần ác trụ ở trong thân mà gây não loạn.

Lại có chúng sinh quy hướng Tam Bảo, phụng trọng Hiền Thánh cho đến ở chỗ của Phật, Bồ Tát Thập Địa, Bích Chi, Thanh Văn gieo trồng gốc thiện. Do tham sân còn nặng nên chẳng được giải thoát.

Tuy lại được sinh ở trên Trời, cho đến được sinh ở Cõi Trời Vô Sắc Giới, tận bờ mé của ba cõi. Do chưa miễn được luân hồi nên lại bị đọa lạc sinh trở lại Cõi Diêm Phù, cũng lại thọ nhận thân, hoặc ngu hoặc si, lại bị Bộ Đa với hàng Ma Đa La, các quỷ thần ác trụ ở trong thân mà gây não loạn.

Các người có trí với Thánh Nhân kia nhìn thấy việc này xong, rộng nói hành tướng khiến cho trì tụng hành nhân ấy mỗi mỗi hiểu rõ.

Người trì tụng ấy do thường tụng Đại Đà La Ni Đại Minh Lực cho nên các hàng quỷ thần chẳng thể gây chướng ngại. Người trì ấy, tâm chẳng hôn mê, đầy đủ uy đức, đối với Đà La Ni được đại tự tại.

Ở Đại Địa này, hết thảy Bộ Đa với hàng Đá La trụ trong thân người gây não loạn, đều hay hô triệu khiến đến hiện ra, mỗi mỗi đều khiến loài ấy như thật tự nói. Dùng sức Đà La Ni lìa thân người kia, lại nữa, cùng với loài kia nói pháp thâm diệu khiến chịu điều phục.

Nhóm Bộ Đa ấy lìa khỏi người xong thì người thường bị bệnh kia được giải thoát. Dùng sức Đà La Ni điều phục điều ác, tăng ích điều thiện, đối với thiện đối với ác mà được tự tại.

Lại lúc trước nói ba loại giới âm, dương, phong hợp với ba loại pháp tham, sân, si. Do pháp của tham sân si chẳng ngưng diệt cho nên âm, dương, phong mà có tăng thịnh.

Lại hợp với Địa Pṛthivi: Đất làm bốn đại. Đất cùng với nước hợp, lửa cùng với gió hợp. Lại có hư không làm đại thứ năm. Số bên trên là nơi mà con người luôn biết.

Kẻ kia y theo người bệnh đối với bốn đại giới, tâm sinh nghi ngờ.

Thân tuy do bốn Đại thì bệnh từ đâu sinh?

Nếu chẳng từ sinh thì bệnh tự ai có?

Đối với sinh, chẳng sinh dấy lên hai loại nghi là ngoài bốn đại riêng có chỗ tạo làm. Người này, Thiên Nhân cho đến phi nhân amanuṣya với các hữu tình, hết thảy có tăng giảm. Chỉ trừ Chư Phật Chính Biến Tri Giác của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều đồng chỗ nói, không có hai, không có khác.

Như vậy thiện ác tùy theo nhân hetu mà được quả phala, mọi loại khổ não đều tự nghiệp karma làm.

Người Hạ Phẩm này không có phước, không có chỗ nương dựa, các loài phi nhân liền được dịp thuận tiện gây hại. Nếu là người của Thượng Phẩm thì sức thiện thù thắng, sinh ra hợp với sao tốt, chỉ có ứng với điềm lành kỳ đặc, các loài phi nhân với các việc ác thảy đều xa lìa, luôn khéo vắng lặng được an vui lớn.

Người ấy có mong cầu Đại Minh Đà La Ni, Nghi Quỹ tối thượng mau được thành tựu. Cho đến các Đức Chính Biến Tri quá khứ, hiện tại, vị lai ở trong Kinh Pháp nói pháp vô ngã tối thượng bậc nhất của thế gian, Chân Như Giải Thoát Tối.

Tịch Tĩnh Cú, Vô Thượng Cú, Chân Ngôn Đại Đà La Ni, pháp thành tựu của tất cả nghi quỹ… khiến các Hành Nhân được nhất thiết trí trí Sarva jña jñāna Ta, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói Pháp Đại Nghi Quỹ như vậy là Vua trong các Nghi Quỹ.

Nếu nhóm hữu tình y theo pháp tu hành sẽ được vô bệnh vô tận cú, hằng tịch tĩnh cú, vô phiền não cú, Bồ Đề Niết Bàn cú cho đến tất cả Chân Ngôn Cú Nghĩa, ba loại Bồ Đề, nhất thiết trí trí. Nhân nghiệp đã được trong các Nghi Quỹ chẳng thể thấy nghe, lại là hàng Phật Bồ Tát vì lợi ích cho các hình tình của tất cả thế gian nên đã nói, đã truyền.

Khi Đức Phật nói Quảng Đại Chân Ngôn Vương Nghi Quỹ như vậy thời ở trong ba cõi, hết thảy các Chân Ngông Vương không có ai chẳng hàng phục. Nếu lại mặt trăng Mâu Ni mất, thế gian trống rỗng thời Phật Giáo diệt tận. Nghi Quỹ Vương này còn trụ chẳng đi.

Này Diệu Cát Tường Đồng Tử! Đại lực Chân Ngôn Vương Nghi Quỹ này là điều mà Đức Phật đã nói. Nếu có chúng sinh sau khi nghe xong, thành tâm tin trọng, chí nguyện cầu mong thì hết thảy các pháp của thế gian xuất thế gian đều được thành tựu. Chư Phật đã nói không có nói lời hư vọng.

Nếu có Hành Nhân đối với Chân Ngôn Vương luôn trì tụng với ưa thích pháp Hộ Ma thì người ấy đồng với chỗ truyền thụ của nhất thiết trí trí ba đời, an trụn trong pháp Nghi Quỹ của Chân Ngôn Vương không có nghi ngờ.

Hết thảy tất cả chúng sinh trong thế gian không có trí tuệ, đối với việc thiện ác, việc chẳng phải là thiện ác, việc tốt, chẳng tốt. Đối với việc như vậy sinh nghi ngờ thì nên vì nhóm này nói tất cả pháp giải thoát tối thượng thuộc thế gian xuất thế gian của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, khiến làm mọi loại pháp Chân Ngôn Vương mà thế gian đã tôn trọng, làm chỗ gom tụ cho tất cả chúng sinh.

Này Diệu Cát Tường Đồng Tử! Ông đã mong cầu ta nói việc thiện ác ấy với các pháp yếu chỉ vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, Chư Phật quá khứ cũng đồng chỗ nói, có thể khiến cho mầm Phật vị lai chẳng bị đứt đoạn. Nếu người trì tụng đối với sức nhất trí trí đã nói này, sinh tin tưởng tôn trọng sâu xa, tinh tiến không có nghi ngờ thì hạnh đã hành, đồng với nhất thiết trí trí.

Nếu người trì tụng ở đời quá khứ từng làm các nghiệp chướng ác chưa dứt, nên ở đời này chỗ làm sự nghiệp chẳng thành tựu thì nên y theo hối pháp mà Chư Phật đã nói, chí tâm sám hối ắt được nghiệp chướng trừ diệt.

Lại nên y theo pháp tu hành, mau được thành tựu. Hoặc là người ngu mê luân hồi, nghiệp nặng chẳng thể y theo pháp sám hối tu hành thì chỗ làm, chỗ mong cầu chẳng thể thành tựu. Đối với các hữu tình không do đâu mà lợi lạc.

Lại nữa, các người trì tụng nên tu định nghiệp, nếu chẳng tu định thì chẳng thể hướng vào môn giải thoát. Nếu hay tu định cùng với pháp làm duyên thì quyết định giải thoát, mau chứng bồ đề.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần