Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Hai Mươi Sáu - Phẩm Thập địa - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI PHƯƠNG
QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẨM HAI MƯƠI SÁU
PHẨM THẬP ĐỊA
PHẦN BA
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát tùy thuận đại bi đại từ như vậy, lúc dùng tâm thâm trọng trụ bậc Sơ Địa, đối với tất cả vật không hề lẫn tiếc, cầu Phật trí, tu đại xả. Phàm có thứ chi đều có thể bố thí cả.
Những là tiền, lúa, kho, đụn, vàng, bạc, Ma Ni, châu ngọc, đồ trang sức, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhân dân, thành ấp, tụ lạc, vườn rừng, lầu đài, vợ con quyến thuộc, đầu, mắt, tay, chân, máu, thịt, xương, tủy, tất cả đều không tiếc, để cầu trí huệ rộng lớn của Chư Phật. Ðây gọi là thành tựu đại xả của bậc Bồ Tát trụ Sơ Ðịa.
Chư Phật Tử! Bồ Tát dùng tâm từ bi đại thí này là vì muốn cứu hộ tất cả chúng sanh. Thêm cầu những sự lợi ích thế gian và xuất thế, vì không nhàm đủ liền được thành tựu tâm không mỏi nhàm.
Ðược tâm không mỏi nhàm rồi, với tất cả Kinh Luận, không lòng khiếp nhược, vì lòng không khiếp nhược liền được thành tựu nhất thiết Kinh Luận trí.
Ðược trí này rồi thời có thể hay so lường việc nên làm, việc chẳng nên làm. Với tất cả chúng sanh căn cơ thượng, trung, hạ, thuận theo chỗ đáng độ, năng lực và thói quen của họ mà làm cho họ đều được lợi ích. Do đây Bồ Tát được thành thế trí. Thành được thế trí rồi liền biết thời tiết, biết lượng số.
Vì tàm quý mà siêng tu đạo hạnh tự lợi lợi tha nên thành tựu tàm quý trang nghiêm. Trong hạnh này siêng tu hạnh giải thoát không thối chuyển thành sức kiên cố. Ðược sức kiên cố rồi thời siêng cúng dường Chư Phật. Nơi giáo pháp của Phật có thể thật hành đúng như lời dạy.
Chư Phật Tử! Bồ Tát thành tựu mười pháp thanh tịnh các Trí Địa như vậy.
Chính là: Bi, từ, xả, không mỏi nhàm, biết Kinh Luận, hiểu thế pháp, tàm quý, sức kiên cố, cúng dường Chư Phật và y giáo tu hành.
Chư Phật Tử! Bồ Tát đã trụ bậc Hoan Hỷ Ðịa này rồi, do sức đại nguyện được thấy nhiều Đức Phật. Như là thấy trăm Đức Phật, thấy ngàn Đức Phật, trăm ngàn Đức Phật, ức Phật, trăm ức Phật, ngàn ức Phật, trăm ngàn ức Phật, ức na do tha Phật, trăm ức na do tha Phật, ngàn ức na do tha Phật, trăm ngàn ức na do tha Phật.
Với Chư Phật này, Bồ Tát đều dùng đại tâm, thâm tâm, cung kính tôn trọng phụng thờ cúng dường những y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược và tất cả đồ dùng, cũng cúng dường tất cả Chúng Tăng, Bồ Tát đem công đức thiện căn này đều hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề.
Chư Phật Tử! Vì cúng dường Chư Phật, Bồ Tát này thành tựu được chúng sanh pháp, dùng hai nhiếp pháp trước là bố thí và ái ngữ để nhiếp lấy chúng sanh. Còn hai nhiếp pháp sau thời chỉ do sức tín giải mà thật hành chớ chưa thông đạt.
Bồ Tát này ở trong mười Ba La Mật, thời đàn Ba La Mật được thượng. Với chín Ba La Mật kia thời tùy sức tùy phần mà thật hành.
Bồ Tát này trong lúc siêng cúng dường Chư Phật Giáo hóa chúng sanh đều để tu hành thanh tịnh pháp Trí Địa. Bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng bậc nhất thiết chủng trí, lần thêm sáng sạch, điều nhu thành tựu, tùy ý đều dùng được.
Chư Phật Tử! Ví như thợ kim hoàn, khéo luyện vàng, cho vào lửa thường thời vàng càng thêm sáng sạch mịn nhuyễn tùy ý người thợ dùng. Cũng vậy, Bồ Tát này cúng dường Chư Phật Giáo hóa chúng sanh đều để tu hành thanh tịnh pháp Trí Địa, bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng bậc nhất thiết chủng trí, càng thêm sáng sạch điều nhu thành tựu có thể dùng tùy ý.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ bậc Sơ Địa phải đến chỗ Chư Phật, Bồ Tát, thiện tri thức tìm cầu thưa hỏi. Ở trong địa này, từ nơi tướng và đắc quả không nhàm đủ, vì muốn thành tựu pháp của Trí Địa này.
Lại cũng phải đến chỗ Phật, Bồ Tát, thiện tri thức tìm cầu thưa hỏi tướng và đắc quả của Nhị Ðịa, Tam Ðịa nhẫn đến Thập Ðịa không nhàm đủ, vì muốn thành tựu pháp của các Trí Ðịa đó.
Bồ Tát này khéo biết trong các Trí Địa: Chướng và đối trị, địa thành hay hoại, địa tướng và quả. Cũng biết rõ địa đắc tu, địa pháp thanh tịnh, địa tiến tu lên, phải địa chẳng phải địa, trí thù thắng của các địa, bất thối chuyển của các địa. Cũng khéo biết thanh tịnh tu trị tất cả Trí Địa, nhẫn đến chuyển vào Như Lai địa.
Chư Phật Tử! Bồ Tát khéo biết địa tướng như vậy. Ban đều ở bậc Sơ Địa phát khởi tu hành không giám đoạn, nhẫn đến nhập bậc Thập Địa không gián đoạn. Do trí huệ sáng suốt của các Trí Địa đây mà thành trí huệ quang minh của Như Lai.
Chư Phật Tử! Ví như vị thương chủ biết rành phương tiện muốn dắt các thương gia đến đại thành, lúc chưa khởi hành, trước hỏi rõ sự lành dữ dọc đường và chỗ đến ở an hay nguy, được hay không. Sau đó trang bị tu lương vật dụng đầy đủ rồi mới cùng nhau lên đường.
Chư Phật Tử! Vị thương chủ kia dầu chưa khởi hành mà đã biết rõ lộ trình lành dữ tất cả sự an nguy, khôn khéo suy tính sắm sửa hành trang lương thực không để thiếu sót, mới có thể dắt đoàn thương gia đến đại thành một các toàn vẹn an ổn.
Chư Phật Tử! Bồ Tát cũng như vậy. Trụ bậc Sơ Địa biết rành chướng và đối trị của các Trí Địa, nhẫn đến biết rành tất cả Trí Địa thanh tịnh chuyển nhập Như Lai địa, sau đó mới lo đủ tu lương phước và trí, dắt các chúng sanh đi qua đường hiểm sanh tử, đến thành nhất thiết chủng trí một các an toàn.
Vì lẽ trên đây nên Bồ Tát phải thường siêng tu công hạnh thanh tịnh thù thắng của các Trí Địa nhẫn đến chứng nhập Như Lai địa.
Chư Phật Tử! Ðây gọi là lược nói môn nhập bậc Sơ Địa của đại Bồ Tát. Nói rộng ra thời có vô lượng vô biên trăm ngàn vô số sự sai khác.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ bậc Sơ Địa này phần nhiều hiện làm Vua ở Diêm Phù Ðề, giàu mạnh tự tại thường hộ trì chánh pháp. Hay dùng hạnh đại thí để nhiếp thủ chúng sanh, khéo trừ tật tham lam bỏn sẻn của chúng sanh. Tất cả công việc làm như là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Chẳng rời niệm Bồ Tát đồng hạnh, chẳng rời niệm hạnh Bồ Tát, các môn Ba La Mật, các Trí Địa. Chẳng rời niệm lực, vô úy, pháp bất cộng. Chẳng rời niệm nhất thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Tôi phải ở trong tất cả chúng sanh làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi diệu, làm thượng, làm vô thượng, làm Ðạo Sự, làm tướng, làm soái, nhẫn đến làm người y chỉ của nhất thiết chủng trí.
Bồ Tát này nếu muốn bỏ nhà để siêng tu Phật Pháp, liền có thể bỏ nhà vợ con ngũ dục, vào nhà Như Lai xuất gia học đạo.
Ðã xuất gia rồi thời tinh tấn tu hành, trong khoảng một niệm trăm Tam Muội, được thấy trăm Đức Phật, biết thần lực của trăm Ðức Phật, có thể chấn động Thế Giới của tăm Ðức Phật, có thể qua Thế Giới của trăm Ðức Phật, có thể chiếu Thế Giới của trăm Ðức Phật.
Có thể giáo hóa chúng sanh trong trăm Thế Giới, có thể trụ thọ trăm kiếp, có thể biết những việc đã qua và sẽ tới trong trăm kiếp, có thể vào trăm pháp môn, có thể thị hiện trăm thân, ở mỗi thân có thể thị hiện trăm vị Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu dùng nguyện lực thù thắng của Bồ Tát tự tại thị hiện hơn nơi số trên đây, thời cả trăm kiếp ngàn kiếp, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp cũng chẳng tính biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
Nếu người tu điều lành
Ðủ những pháp bạch tịnh
Cúng dường Chư Thế Tôn
Tùy thuận đạo từ bi.
Tin hiểu rất rộng lớn
Chí nguyện cũng thanh tịnh
Vì cầu trí huệ Phật
Phát tâm vô thượng này.
Tu tất cả trí lực
Và cùng vô sở úy
Thành tựu các Phật Pháp
Cứu nhiếp các quần sanh.
Vì được đại từ bi
Và chuyển thắng pháp luân
Nghiêm tịnh Phật Quốc Độ
Phát tâm tối thắng này.
Một niệm biết Tam Thế
Mà không có phân biệt
Thời gian sai khác nhau
Ðể hiển thị thế gian
Lược nói cầu Chư Phật
Tất cả thắng công đức
Phát sanh tâm quảng đại
Lượng đồng cõi hư không.
Bi trước, huệ làm chủ
Tương ưng cùng phương tiện
Tâm tín giải thanh tịnh
Phật vô lượng thần lực.
Trí vô ngại hiện tiền
Tự ngộ chẳng do người
Ðầy đủ đồng Chư Phật
Phát tâm tối thắng này.
Phật Tử mới phát sanh
Tâm diệu bảo như vậy
Thời siêu hạng phàm phu
Vào chỗ đi của Phật.
Sanh tại nhà Như Lai
Chủng tộc không tội lỗi
Ðồng bình đẳng với Phật
Quyết thành vô thượng giác,
Vừa sanh lòng như vậy
Liền được vào Sơ Địa
Chí nguyện chẳng bị động
Dường như núi Tu Di.
Nhiều vui, nhiều ưa thích.
Lại cũng nhiều tịnh tín
Tâm dũng mãnh rất lớn
Và cùng tâm mừng rỡ.
Xa rời sự đấu tránh
Não hại và giận hờn
Kính thuận mà chất trực
Khéo gìn giữ sáu căn.
Ðấng cứu thế vô thượng
Có bao nhiêu trí huệ
Bậc này tôi sẽ được
Ghi nhớ sanh hoan hỷ.
Mới được vào Sơ Địa.
Liền siêu năm điều sợ:
Chẳng sống, thiếng xấu, chết,
Ác đạo, chúng oai đức.
Vì chẳng tham chấp ngã
Và chẳng chấp ngã sở
Các Phật Tử như đây
Xa rời năm điều sợ.
Thường thật hành đại từ
Luôn kính tin tùy thuận.
Ðủ công đức tàm qúy
Ngày đêm thêm pháp lành.
Thích thật lợi chánh pháp
Chẳng ưa thọ dục lạc
Tu duy pháp đã nghe
Rời xa hạnh chấp trước.
Chẳng tham cầu lợi dưỡng
Chỉ thích Phật bồ đề
Nhất tâm cầu Phật trí
Chuyên ròng không niệm khác.
Tu tập Ba la mật
Xa rời dua dối gạt
Thật hành đúng lời Phật
An trụ trong thật ngữ.
Chẳng nhơ nhà Chư Phật
Chẳng bỏ giới Bồ Tát
Chẳng thích những thế sự
Thường lợi ích thế gian.
Làm lành không nhàm đủ
Thêm cầu đạo tăng thắng
Ưa thích pháp như vậy
Tương ưng nghĩa công đức.
Thường phát khởi đại nguyện
Nguyện thấy Chư Như Lai
Hộ trí Phật chánh pháp
Nhiếp lấy đạo vô thượng.
Thường sanh nguyện như vậy:
Tu hành hạnh tối thắng.
Thành thục mọi quần sanh
Nghiêm tịnh Phật Quốc Độ.
Tất cả các Cõi Phật
Ðều đông dầy Phật Tử
Bình đẳng chung một lòng
Việc làm đều chẳng luống.
Nơi tất cả chân lông
Ðồng thời thành Chánh Giác
Những đại nguyện như vậy
Vô lượng vô biên tế.
Hư không cùng chúng sanh
Pháp giới và Niết Bàn
Thế gian Phật ra đời
Phật trí tâm cảnh giới,
Trí của Như Lai chứng
Cùng tam chuyển pháp tận
Tất cả đó có tận
Nguyện của tôi mới tận,
Như đó không cùng tận
Nguyện của tôi cũng vậy,
Phát nguyện lớn như thế
Tâm nhu nhuyến điều thuận.
Hay tin công đức Phật
Quan sát nơi chúng sanh
Biết từ nhân duyên khởi
Liền sanh lòng từ mẫn:
Chúng sanh khổ như vậy
Nay tôi phải cửu thoát
Vì những chúng sanh này
Thật hành việc bố thí.
Ngôi Vua và trân bảo
Nhẫn đến voi, ngựa, xe,
Ðầu, mắt, cùng tay, chân,
Nhẫn đến máu, thịt, xương
Tất cả đều xả thí
Không có lòng hối tiếc.
Cầu các thứ Kinh thơ
Không hề biết nhàm mỏi
Khéo hiểu nghĩa thú kia
Hay thuận theo thế gian.
Tàm quý tự trang nghiêm
Tu hành càng kiên cố
Cúng dường vô lượng Phật
Cung kính và tôn trọng.
Thường tu tập như vậy
Ngày đêm không nhàm mỏi
Thiện căn càng sáng sạch
Như lửa luyện chân kim.
Bồ Tát trụ nơi đây
Tịnh tu mười Trí Địa
Chỗ làm không chướng ngại
Ðầy đủ chẳng đoạn tuyệt.
Ví như vị thương chủ
Vì lợi cho thương gia
Hỏi rõ đường dễ khó
An ổn đến đại thành
Bồ Tát trụ Sơ Địa
Phải biết cũng như vậy.
Dũng mãnh không chướng ngại
Ðến bậc đệ Thập Địa.
Trụ trong Sơ Địa này.
Làm chủ công đức lớn
Ðem pháp dạy chúng sanh
Tâm từ không tổn hại.
Thống lãnh Diêm Phù Ðề
Giáo hóa tất cả chúng
Ðều trụ hạnh đại xả
Thành tựu trí huệ Phật.
Muốn cầu đạo tối thắng
Bỏ ngôi Quốc Vương mình
Hay ở trong Phật Giáo
Dũng mãnh siêng tu tập,
Liền được trăm Tam Muội
Và thấy trăm Đức Phật
chấn động trăm Thế Giới
Quang minh chiếu trăm cõi,
Ðộ trăm cõi chúng sanh
Chứng nhập trăm pháp môn
Hay biết việc trăm kiếp
Thị hiện trăm thân Phật
Và hiện trăm Bồ Tát
Ðể dùng làm quyến thuộc,
Nếu nguyện lực tự tại
Hơn số này vô lượng.
Ở trong nghĩa Sơ Địa
Tôi lược thuật phần ít,
Nếu muốn giảng giải rộng
Ức kiếp chẳng hết được.
Bồ Tát đạo tối thắng
Lợi ích mọi quần sanh
Pháp Sơ Địa như vậy
Nay tôi đã nói xong.
Chúng Bồ Tát đã nghe
Ðịa tối thắng vi diệu
Tâm các Ngài thanh tịnh
Tất cả đều vui mừng
Ðồng rời tòa đứng dậy
Vọt bay dừng trên không
Khắp rải hoa báu đẹp
Ðồng thời chung khen ngợi:
Lành thay Kim Cang Tạng
Bậc đại trí vô úy
Khéo nói những pháp lành
Của Sơ Địa Bồ Tát.
Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt
Biết lòng chúng thanh tịnh
Thích nghe những hành tướng
Của đệ nhị Ly Cấu
Liền thỉnh Kim Cang Tạng:
Ðại trí xin diễn thuyết
Phật tử đều thích nghe
Ðệ nhị Ly Cấu Ðịa.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú - Phẩm Mười Ba - Phẩm Thế Gian
Phật Thuyết Kinh đại Phật đảnh Quảng Tụ đà La Ni - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm đại đàn Công Năng
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát - Phẩm Mười Hai - Phẩm Xa Lìa Phân Biệt
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bốn - Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát - Phần Bốn