Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Hai Mươi Sáu - Phẩm Thập địa - Phần Mười

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI PHƯƠNG

QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường  

PHẨM HAI MƯƠI SÁU

PHẨM THẬP ĐỊA  

PHẦN MƯỜI  

Giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật Tử! Đại Bồ Tát đã đủ đệ ngũ địa muốn vào đệ lục hiện tiền địa phải quán sát mười pháp bình đẳng.

Ðây là mười pháp: Tất cả pháp vì vô tướng nên bình đẳng vì vô thế nên bình đẳng.

Vì vô sanh nên bình đẳng.

Vì vô diệt nên bình đẳng.

Vì bổn lai thanh tịnh nên bình đẳng.

Vì không hý luận nên bình đẳng.

Vì không thủ xã nên bình đẳng.

Vì tịch tịnh nên bình đẳng.

Vì như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như trăng trong nước, như tượng trong gương, như dương diệm, như biến hoá nên bình đẳng, vì có không bất nhị nên bình đẳng. Bồ Tát quán sát các pháp như vậy, tự tánh thanh tịnh, tuỳ thuận không trái được vào đệ lục hiện tiền địa, được minh lợi tuỳ thuận nhẫn, chưa được vô sanh pháp nhẫn.

Chư Phật Tử! Đại Bồ Tát này quán như vậy rồi, lại lấy đại làm đầu, đại bi tăng thượng, đại bi đầy đủ, quán thế gian sanh diệt mà nghĩ rằng: Thế gian thọ sanh đều do chấp ngã. Nếu lìa chấp ngã thời không chỗ sanh.

Lại nghĩ rằng: Phàm phu không trí huệ chấp lấy ngã thường tìm có không, suy xét bất chánh, khởi vọng hạnh, làm đạo tà, nghiệp tội, nghiệp bất động tích tập thêm lớn. Ở trong các nghiệp hành trồng hột giống tâm hửu lậu hữu thú, lại khởi hậu hữu: sanh và lão tử.

Chính là: Nghiệp làm đồng ruộng, thức làm hột giống, vô minh che rợp, nước ái thấm nhuần, ngã mạn tưới bón, lưới chấp kiến thêm lớn, mọc mầm danh sắc, danh sắc thêm lớn nẩy chồi ngũ căn, các căn đối nhau sanh ra xúc, xúc đối sanh có thọ, sau khi thọ rồi mong cầu sanh có ái, ái tăng thêm sanh ra thủ.

Thêm lớn thủ sanh ra hữu, đã sanh hữu thời ở trong các loài khởi thân ngũ uẩn gọi là sanh, suy biển gọi là lão, chết mất gọi là tử. Lúc lão tử sanh ra những nhiệt não.

Do nhiệt não nên đủ thứ khổ ưu sầu, buồn than tập họp lại. Ðây là do duyên mà tập họp chớ không có cái tập họp. Lần lượt mà diệt chớ không có cái diệt. Bồ Tát tuỳ thuận quán sát tương duyên khởi như vậy.

Chư Phật Tử! Đại Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Vì chẳng tỏ ngộ nơi đệ nhất nghĩa đế nên gọi là vô minh. Nghiệp quả là hành. Sơ tâm của hành y chỉ là thức. Bốn uẩn cùng thức sanh chung là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là lục nhập. Căn, cảnh, thức ba thứ hòa hiệp là xúc. Xúc sanh chung mà có thọ.

Nhiễn trước nơi thọ là ái. Thêm lớn ái thành ra thủ. Nghiệp hữu lậu do thủ khởi lên là hữu. Từ nghiệp khởi ra uẩn là sanh. Uẩn chín mùi là lão. Uẩn hư hoại là tử. Lúc mê tham luyến trong lòng phiền muộn là sầu. Rơi lệ than thở là thán.

Tại năm căn là khổ. Tại ý tưởng là ưu. Ưu khổ càng nhiều là não. Như thế thì chỉ có cây khổ làm tăng trưởng, trọn không ngã không ngã sở, không tác giả, không thọ giả.

Lại nghĩ rằng: Nếu có tác giả thời có tác sự. Nếu không tác giả thời không tác sự. Trong đệ nhất nghĩa đế hoàn toàn bất khả đắc.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Toàn cả tam giới chỉ có nhất tâm. Ở đây Đức Như Lai phân biệt diễn nói mười hai chi, đều y cứ nhất tâm mà an lập như vậy.

Tại sao vậy?

Vì theo sự tham dục cùng tâm sanh chung. Tâm là thức, sự là hành. Mê lầm nơi hành là vô minh.Cùng vô minh và tâm sanh chung là danh sắc. Tăng trưởng danh sắc là lục nhập.

Lục nhập ba phần là xúc. Xúc sanh chung là thọ. Thọ không nhàm đủ là ái. Ái nhiếp chẳng bỏ là thủ. Các hữu chi sanh là hữu. Của hữu phát khởi gọi là sanh. Sanh thục là lão. Lão hoại là tử.

Chư Phật Tử! Trong đây vô minh có hai thứ nghiệp:

Một là làm cho chúng sanh mê nơi cảnh sở duyên.

Hai là làm nhân sanh khởi cho hành.

Hành cũng có hai thứ nghiệp:

Một là có thể sanh ra báo vị lai.

Hai là làm nhân sanh khởi cho thức.

Thức cũng có hai thứ nghiệp:

Một là khiến các hữu nối tiếp.

Hai là làm nhân sanh khởi cho danh sắc.

Danh sắc cũng có hai thứ nghiệp:

Một là trợ thành lẫn nhau.

Hai là làm nhân sanh khởi cho lục nhập.

Lục nhập cũng có hai thứ nghiệp:

Một là đều riêng lấy cảnh giới của tự mình.

Hai là làm nhân sanh khởi cho xúc.

Xúc cũng có hai thứ nghiệp:

Một là hay xúc cảnh sơ lên.

Hai là làm nhân sanh khởi cho thọ.

Thọ cũng có hai nghiệp:

Một là hay lãnh thọ các sự yêu ghét.

Hai là làm nhân sanh khởi cho ái.

Ái cũng có hai nghiệp:

Một là nhiễm trước sự khả ái.

Hai là làm nhân sanh khởi cho thủ.

Thủ cũng có hai nghiệp:

Một là làm cho các phiền não nối tiếp.

Hai là làm nhân sanh khởi cho hữu.

Hữu cũng có hai nghiệp:

Một là hay làm cho sanh trong các loài.

Hai là làm nhân sanh khởi cho sanh.

Sanh cũng có hai nghiệp:

Một là hay khởi các uẩn.

Hai là làm nhân sanh khởi cho lão.

Lão cũng có hai nghiệp:

Một là làm cho các căn biến đổi.

Hai là làm nhân sanh khởi cho tử.

Tử cũng có hai thứ nghiệp:

Một là hay làm hoại cách hành.

Hai là vì chẳng giác tri nên nối tiếp chẳng dứt.

Chư Phật Tử! Trong đây vô minh, duyên hành, nhẫn đến sanh duyên lão tử. Do vô minh làm duyên, nhẫn đến sanh làm duyên làm cho hành nhẫn đến lão tử chẳng dứt, vì nó trợ thành vậy. Vô minh diệt thời hành diệt, nhẫn đến sanh diệt thời lão tử diệt. Do vô minh chẳng làm duyên nhẫn đến sanh chẳng làm duyên, khiến cho hành nhẫn đến lão tử dứt diệt, vì nó chẳng trợ thành vậy.

Chư Phật Tử! Trong đây vô minh ái và thủ chẳng dứt là phiền não đạo. Hành và hữu chẳng dứt là nghiệp đạo. Những phần khác chẳng dứt là khổ đạo. Tiền tế hậu tế phân biệt dứt diệt thời ba đạo dứt diệt.

Ba đạo như vậy lìa ngã, lìa ngã sở, chỉ có sanh diệt dường như bó lau. Lại vô minh duyên hành là quán quá khứ. Thức nhẫn đến thọ là quán hiện tại. Ái nhẫn đến hữu là quán vị lai. Từ đây về sau xoay vần tiếp nối. Vô minh diệt, hành diệt, đó là quán chờ dứt diệt. Lại mười hai hữu chi gọi là tam khổ.

Trong đây vô minh, hành đến lục nhập là hành khổ. Xúc, thọ là khổ khổ. Những chi khác là hoại khổ. Vô minh diệt, hành diệt đó là ba khổ dứt. Lại vô minh duyên hành là vô minh làm nhân hay sanh các hành. Các chi khác cũng vậy. Vô minh diệt hành diệt đó là do không vô minh thời hành cũng không. 

Các chi khác cũng không. Các chi khác cũng vậy. Lại vô minh duyên hành đó là sanh phược. Vô minh diệt hành diệt đó là diệt hệ phược. Các chi khác cũng vậy. Lại vô minh duyên hành đó là tùy thuận vô sở hữu quán. Vô minh diệt hành diệt đó là tùy thuận tận diệt quán. Các chi khác cũng vậy.

Chư Phật Tử! Đại Bồ Tát quán nghịch thuận các duyên khởi có mười cách như vậy là vì hữu chi nối tiếp, vì nhiếp tại nhất tâm, vì tự nghiệp sai biệt, vì tam đạo chẳng dứt, vì quán quá khứ, hiện tại, vị lai, vì ba khổ tụ tập,vì nhân duyên sanh diệt, vì sanh diệt hệ phược, vì vô sở hữu quán và tận quán.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát dùng mười tướng như vậy quán các duyên khởi biết là vô ngã, vô nhân, vô thọ mạng, tự tánh không, chẳng có tác giả, không có thọ giả, liền được môn không giải thoát hiện tiền. Quán các hữu chi đều là tự tánh diệt, rốt ráo giải thoát, không có chút pháp tướng sanh, liền được môn vô tướng giải thoát hiện tiền.

Nhập không, vô tướng rồi, không nguyện cầu, chỉ trừ đại bi làm đầu giáo hoá chúng sanh, liền được môn vô nguyện giải thoát hiện tiền. Bồ Tát tu ba môn giải thoát như vậy, lìa tưởng ngã, lìa tưởng tác giả, tưởng thọ giả, lìa tưởng hữu vô.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này đại bi càng tăng thêm siêng năng tu tập, vì chưa viên mãn pháp bồ đề phần nên làm cho viên mãn.

Bồ Tát nghĩ rằng: Tất cả hữu vi, có hoà hiệp thời chuyển, không hoà hiệp thời không chuyển. Duyên nhóm thời chuyển, duyên không nhóm thời chẳng chuyển. Tôi biết pháp hữu vi có nhiều lỗi hoạ như vậy, nay phải dứt nhân duyên hoà hiệp này. Nhưng vì phải thành tựu chúng sanh nên cũng chẳng dứt các công hạnh.

Chư Phật Tử! Bồ Tát như vậy quán sát các pháp hữu vi có nhiều lỗi ác, không có tự tánh, không sanh không diệt mà hằng khởi đại bi chẳng bỏ chúng sanh, liền được bát nhã Ba la mật hiện tiền, gọi là vô chướng ngại trí quang minh.

Thành tựu trí quang minh như vậy rồi, dầu tu tập bồ đề phần nhân duyên mà chẳng trụ trong hữu vi, dầu quán pháp hữu vi tự tánh tịch diệt, cũng chẳng trụ trong tịch diệt. Vì pháp bồ đề phần chưa viên mãn.

Chư Phật Tử! Bồ Tát trụ bậc hiện tiền địa này, được nhập không tam muội, tự tánh không tam muội, đệ nhất không tam muội, hiệp không tam muội, khởi không tam muội, như thiệt bất phân biệt không tam muội, bất xã ly không tam muội. Bồ Tát này được mười môn không tam muội như vậy làm đầu. Kế đó trăm ngàn không tam muội đều hiện tiền cả.

Mười môn vô tướng không tam muội, mười môn vô nguyện tam muội như vậy làm đầu, kế đó trăm ngàn môn vô tướng, vô nguyện đều hiện tiền cả.

Chư Phật Tử! Bồ Tát trụ bậc hiện tiền địa này lại tu tập đầy đủ tâm bất khả hoại, tâm quyết định, tâm thuần thiện, tâm thậm thâm, tâm, tâm bất thối chuyển, tâm bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm cầu trí, tâm phương tiện huệ tương ưng, tất cả đều viên mãn.

Chư Phật Tử! Bồ Tát dùng mười tâm này thuận Phật Bồ Đề, chẳng sợ dị luận, vào các Trí Địa, lìa đạo nhị thừa, thẳng đến Phật trí, các ma phiền não không trở lại hư hoại được, trụ nơi Bồ Tát trí huệ quang minh. Trong pháp không, vô tướng, vô nguyện đều khéo tu tập, trí huệ phương tiện luôn chung tương ưng, pháp bồ đề phần thường thật hành chẳng bỏ.

Chư Phật Tử! Bồ Tát trụ trong bậc hiện tiền địa này được tăng thượng hạnh bát nhã Ba la mật, được đệ tam minh lợi thuận nhẫn, vì tuỳ thuận không trái với tướng như thiệt của các pháp.

Chư Phật Tử! Bồ Tát đã an trụ nơi bậc hiện tiền địa này, do nguyện lực nên được thấy nhiều Ðức Phật, nhẫn đén thấy trăm ngàn ức na do tha Ðức Phật đều dùng tâm quãng đại, thâm tâm để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, cũng cúng dường tất cả Chúng Tăng. Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng bồ đề.

Nơi Chư Phật, Bồ Tát này cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như thiệt tam muội trí huệ quang minh, tuỳ thuận tu hành ghi nhớ chẳng bỏ. Lại được pháp tạng thậm thâm của Chư Phật. Trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp, những thiện căn đã có lại càng sáng sạch.

Ví như chân kim, dùng báu tỳ lưu ly luôn dồi bóng, thời càng thêm sáng sạch. Cũng vậy, Bồ Tát đệ lục địa này dùng phương tiện huệ theo dõi quán sát, những thiện căn đãđược càng thêm sáng sạch, càng thêm tịch diệt, không gì che khuất được. Ví như ánh sáng của Mặt Trăng chiếu đến thân chúng sanh làm cho được mát mẽ, bốn thứ phong luân không ngăn hoại được.

Cũng vậy, những thiện căn của bậc Bồ Tát này hay dập tắt ngọn lửa phiền não của vô lượng trăm ngàn ứu na do tha chúng sanh. Bốn thứ ma đạo không phá hoại được. Trong mười môn Ba la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về bát nhã Ba la mật, ngoài ra tuỳ sức tuỳ phần tu các môn khác.

Chư Phật Tử! Đây là lược nói về Đại Bồ Tát đệ lục hiện tiền địa. Bồ Tát an trụ nơi bậc này thường hiện làm thiện hóa thiên vương, việc làm tự tại. Tất cả sự vấn nạn của hàng Thanh Văn không làm thối khuất được. Có thể làm cho chúng sanh trừ diệt ngã mạn, thâm nhập duyên khởi.

Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ nhất thiết chủng trí.

Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Với tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, nhẫn đến bậc y chỉ của nhất thiết chủng trí. Bồ Tát này nếu chuyên cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức thân Phật, mỗi mỗi thân Phật thị hiện trăm ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thị hiện tự tại thời hơn đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.

Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Bồ Tát viên mãn Ngũ Ðịa rồi

Quán pháp vô tướng cũng vô tánh

Vô sanh vô diệt vốn thanh tịnh

Không có hỷ luân không thủ xả.

Thể tướng tịch diệt như huyễn thảy

Hữu vô bất nhị rời phân biệt

Tùy thuận pháp tánh quán như vậy

Trí này được thành nhập Lục Ðịa.

Ðầy đủ trí minh lợi thuận nhẫn

Quán sát thế gian tướng sanh diệt

Do sức si tối có thế gian

Si tối diệt mất không thế gian.

Quán các nhân duyên không thiệt tánh

Chẳng hoại giả, gọi hoà hiệp dụng

Vô tác, vô thọ, không nghĩ nhớ

Hành pháp như mây nổi khắp nơi.

Chẳng biết Chân Đế gọi vô minh

Gây tạo tư: Nghiệp, ngu si: Quả.

Thức khởi sanh chung gọi là danh sắc,

Như vậy nhẫn đến những khổ tụ,

Rõ thấu ba cõi nương nơi tâm

Mười hai nhân duyên cũng nương tâm

Sanh tử đều do tâm làm ra

Tâm nếu diệt dứt, sanh tử hết.

Vô minh công dụng có hai thứ:

Mê lầm sở duyên, làm thành nhân,

Như vậy nhẫn đến lão và tử

Do đây quả khổ không cùng tận.

Vô minh làm duyên chẳng thể dứt,

Duyên đó nếu dứt tất cả dứt,

Ngu si, ái,thủ: Phiền não chi

Hành, hữu là nghiệp, nghiệp, chi khác: khổ.

Si đến lục nhập là hành khổ,

Xúc thọ thêm lớn là khổ khổ,

Còn những chi khác là hoại khổ,

Nếu thay vô ngã ba khổ dứt.

Vô minh cùng hành thuộc quá khứ,

Thức đến xúc, thọ thuộc hiện tại

Ái, thủ, hữu sanh khổ vị lai.

Quán đãi nếu dứt: Biên tế dứt.

Vô minh làm duyên: Là sanh phược

Rời được nơi duyên phược mới hết

Từ nhân sanh quả, lìa thời dứt,

Quán sát nơi đây biết tánh không.

Tuỳ thuận vô minh khởi ba cỏi.

Nếu không tuỳ thuận ba cõi dứt,

Có đây có kia, không cũng vậy

Mười cách tư duy tâm lìa chấp.

Hữu chi tiếp nói nhiếp nhất tâm

Tự nghiệp chẳng rời và tam đạo,

Tam tế, tam khổ nhân duyên sanh

Hệ phược khởi diệt thuận vô tận,

Như vậy, quán khắp pháp duyên khởi

Vô tác, vô thọ, không chân thiệt

Như huyễn, như mộng, như bóng vang

Như kẻ ngu chay theo dương diệm.

Quán sát như vậy vào nơi không

Biết duyên tánh ly được vô tướng

Rõ pháp hư vọng không nguyện cầu

Chỉ có từ mẫn độ muôn loại.

Ðại sĩ tu hành môn giải thoát

Càng thêm đại bi cầu Phật Pháp

Biết các hữu vi hòa hiệp làm

Chí nguyện quyết định siêng hành đạo.

Môn không tam muội đủ trăm ngàn

Vô tướng, vô nguyện cũng như vậy

Bát nhã thuận nhẫn đều không tăng thượng

Giải thoát trí huệ được viên mãn.

Lại dùng thâm tâm cúng nhiều Phật

Ở trong Phật Giáo tu tập đạo

Ðược Phật Pháp tạng thêm thiện căn

Như vàng dùng lưu ly trau sáng.

Như trăng sáng mát lợi muôn loài.

Bốn phong luân không ngăn hoại được,

Bậc Bồ Tát này siêu ma đạo

Dứt trừ phiền não cho quần sanh.

Bậc này thường làm thiên hóa vương

Hóa đạo chúng sanh trừ ngã mạn

Công hạnh đều cầu nhất thiết trí

Ðều đã vượt hơn đạo Thanh Văn.

Bồ Tát bậc này siêng tinh tấn

Ðược môn tam muội trăm ngàn ức

Cũng thấy trăm ngàn ức Đức Phật

Ví như mặt nhật ngày thạnh hạ.

Tậm thâm vi diệu khó thấy biết

Thanh Văn, độc giác không rõ được

Bồ Tát hiện tiền đệ lục địa

Tôi vì Phật Tử đã lược nói.

Bấy giờ Thiên Chúng lòng hoan hỷ

Rải hoa thành mây dừng hư không

Khắp nơi pháp âm thanh diệu mầu

Thưa cùng đắng tối thắng thanh tịnh:

Rõ thấu thắng nghĩa trí tự tại

Thành tựu công đức trăm ngàn ức

Không chấp trước, như sen không nhiễm

Vì lợi chúng sanh nói thâm hạnh.

Tự tại Thiên Vương ở hư không.

Phóng đại quang minh chiếu thân Phật

Cũng rải mây thơm tối thượng diệu

Cúng khắp đắng sạch trừ phiền não

Bấy giờ Thiên Chúng đều vui mừng.

Ðều phát tiếng hay đồng ca ngợi:

Chúng tôi được nghe hiện tiền địa

Thời là đã được nhiều lợi lành.

Thiên Nữ lúc ấy lòng mừng vui

Cùng trổi âm nhạc ngàn muôn điệu

Ðều do thần lực của Như Lai

Trong tiếng hòa nhạc thành lời nói:

Oai nghi tịch tịnh không sánh kịp

Ðiều ngự chúng sanh đời nên cúng

Ðã siêu tất cả những thế gian

Mà vào thế gian truyền diệu đạo.

Dầu hiện nhiều loại vô lượng thân

Biết thân mỗi mỗi vô sở hữu

Khéo dùng ngôn từ nói các pháp

Chẳng chấp tướng văn tự âm thanh.

Qua đến trăm ngàn các Quốc Độ.

Dùng những thượng cúng cúng Dường Phật

Trí huệ tự tại không chấp trước

Chẳng sanh niệm tưởng Cõi Phật ta

Dầu siêng giáo hóa các chúng sanh.

Mà không nhân ngã tất cả tâm

Dầu đã tu thành hạnh quảng đại

Mà nơi hạnh lành chẳng chấp trước.

Bởi thấy tất cả các thế gian

Lửa tham, sân, si thường cháy hực

Nơi các tưởng niệm thảy đều lìa

Phát khởi đại bi sức tinh tấn.

Tất cả Chư Thiên và Thiên Nữ

Cúng dường nhiều thứ khen ngợi rồi

Tất cả đồng thời đứng lặng yên

Chiêm ngưỡng thế tôn mong nghe pháp.

Giải thoát nguyệt vì chúng lại thưa:

Cả đại chúng đây lòng thanh tịnh

Những hành tướng trong đệ Thất Địa

Trông mong Bồ Tát thương giảng giải.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần