Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Thập Luân - Phẩm Mười Bốn - Phẩm Thiền định
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM MƯỜI BỐN
PHẨM THIỀN ĐỊNH
Lại nữa, này Thiện Nam! Đại Bồ Tát có luân thiền định trang nghiêm lớn. Nếu Bồ Tát thành tựu luân này, từ lúc mới phát tâm đã đoạn trừ năm thứ dục, gánh vác, làm ruộng phước cho hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, khiến cho tất cả chúng sinh đều giữ gìn, cúng dường.
Này Thiện Nam! Đại Bồ Tát tu thiền định có hai loại: Một là thế gian, hai là xuất thế gian.
Thế nào gọi là Bồ Tát tu tập thiền định thế gian?
Nếu Bồ Tát nương vào tướng của năm ấm, dựa vào Cõi Dục, Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc mà tu thiền định, nương vào ba cửa giải thoát, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy phần Bồ Đề và tám Thánh Đạo, cho đến đất, nước, gió, lửa, không, thức… đều nương tựa vào đó mà sinh chấp trước. Tu thiền định như vậy gọi là Bồ Tát tu thiền định thế gian, cũng đồng với tất cả hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, không được gọi là đại.
Thế nào gọi là Bồ Tát tu tập thiền định xuất thế gian?
Này Thiện Nam! Đó là Bồ Tát có khả năng phóng ra ánh sáng lớn xuất thế gian, không chấp vướng nơi bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh Đạo.
Các pháp như vậy đều không nương tựa mà tu tập thiền định, cho đến giới thân, khẩu, ý, ba cửa giải thoát, ấm, giới, nhập, ba thọ, bốn đại, không xứ, thức xứ, không dụng xứ, phi tưởng Phi Phi Tưởng xứ, đời này, đời sau đều xa lìa cả, vắng lặng không nương vào không và đại không. Đó gọi là Đại Bồ Tát tu tập thiền định xuất thế gian.
Này Thiện Nam! Nhờ tướng ấy, nên Đại Bồ Tát có thể thành tựu luân thiền định trang nghiêm lớn, từ lúc mới phát tâm đã xa lìa năm thứ dục, gánh vác làm ruộng phước cho hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, cũng khiến cho tất cả chúng sinh luôn giữ gìn, cúng dường.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nêu rõ sự việc trên, nên dùng kệ:
Vì xả bỏ gánh nặng
Tu thiền định hữu tướng
Chỉ tự đoạn kết sử
Không gọi là Bậc Trí.
Tu thiền định chấp trước
Nương tựa vào giải thoát
Chấp giữ bờ bên kia
Không làm lợi chúng sinh.
Nếu bỏ gánh nặng xuống
Nhằm làm lợi chúng sinh
Trừ kết sử, tu định
Là Bậc Trí chân thật.
Nếu đoạn dứt hữu ái
Tạo lợi ích chúng sinh
Tu thiền định vô tướng
Đó mới gọi là đại.
Dứt trói buộc chúng sinh
Khiến thế gian vô úy
Thanh tịnh tu thiền định
Đó mới gọi là đại.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Chín - Phẩm Tiên A Tư đà Hỏi điềm Lành
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Tiểu Kinh Saccaka
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Tám - Phẩm Cúng Dường Hoa
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Bốn - Phẩm Hiện Chứng
Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội - Phần Bốn Mươi Bốn
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Mười - Phẩm Phân Biệt Hương đốt
Phật Thuyết Kinh Sinh - đức Phật Thuyết Giảng Về Chuyện Con Gà Rừng
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Một - Phẩm đại - Kinh Phước
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú Thí Dụ - Phẩm Mười Ba - Phẩm Hoa Hương - Thí Dụ Hai Mươi Bảy