Phật Thuyết Kinh đại Tát Già Ni Kiền Tử Sở Thuyết - Phẩm Tám - Phẩm Công đức Không Lỗi Lầm Của Như Lai - Tập Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI TÁT GIÀ NI
KIỀN TỬ SỞ THUYẾT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM TÁM
PHẨM CÔNG ĐỨC
KHÔNG LỖI LẦM CỦA NHƯ LAI
TẬP SÁU
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm trụ trong Sơ Thiền đạt được vô sinh pháp nhẫn, tăng thượng dục tâm. Cho nên nhập vào Sơ Thiền cầu vô sinh pháp nhẫn.
Vì cầu chuyển thắng vô sinh nhẫn nên ở trong Sơ Thiền sinh tưởng không kiên cố, phát khởi tâm mong muốn hướng lên trên, nên xả bỏ Sơ Thiền ấy và cầu Nhị Thiền. Vì muốn vào đệ Nhị Thiền ấy nên lìa bỏ tâm có giác có quán của Sơ Thiền kia.
Diệt tận tâm ấy, xa lìa tâm ấy và thanh tịnh tâm ấy, tịch tĩnh tâm ấy. Thanh tịnh bên trong, tâm gồm một chỗ, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, nhập vào đệ Nhị Thiền hành. Thanh tịnh bên trong là đối trị pháp kia làm chướng ngại Nhị Thiền.
Tịch tĩnh, pháp ấy thanh tịnh không cấu dục. Đó gọi là thanh tịnh bên trong. Tâm một chỗ là diệt trừ tất cả giác quán của Sơ Thiền kia, vắng lặng chỉ một vị. Thí như biển lớn, tất cả các dòng nước chỉ chảy vào đó đều thành một vị đó là vị mặn. Vào đệ Nhị Thiền diệt trừ tất cả giác quan của Sơ Thiền kia, vắng lặng một vị không giác không quán.
Cho nên gọi đạt được tam muội không giác, không quán. Nương vào tam muội ấy phát sinh hỷ lạc, nghĩa là ở trong Phật, Pháp, Tăng sinh tâm hoan hỷ. Nương vào tâm hoan hỷ ấy mà các công đức thiện tự nhiên đầy đủ.
Vì muốn làm cho vô sinh pháp nhẫn kia chuyển dần đến chỗ cao hơn, chuyển dần đến ánh sáng, chuyển dần đến chỗ thắng diệu, chuyển dần đến chỗ nhu nhuyến. Đạt được tâm dục hướng lên và đối với đệ Nhị Thiền không trụ, không lạc.
Lại mong cầu đệ Tam Thiền hành thang thượng. Sinh tâm như thế, mới biết tâm hỷ kia vẫn làm chướng ngại đệ Tam Thiền và vô sinh pháp nhẫn. Cho nên lìa bỏ hạnh hỷ hành xả, bặt dứt sự ghi nhớ, an trụ trong tuệ, thân thọ lạc.
Lạc này Thánh Nhân cũng gọi là xả. Nương vào tâm dục thắng thượng vô sinh pháp nhẫn của Nhị Thiền kia, lìa hỷ lạc kia, nhập vào Tam Thiền hành, đạt được lạc tam muội và nhàm chán hỷ trước. Sinh tâm như thế này mới biết là không có hỷ lạc nữa mà là vô thường lạc, là pháp tận diệt, chẳng có lạc chân thật, không thường không hằng.
Biết như vậy rồi! Lại chuyển dần tâm dục tăng thượng của vô sinh nhẫn. Nương vào tâm dục thắng thượng ở trên không thích, khổ hay lạc, xa lìa khổ lạc.
Diệt ưu hỷ ở trước, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh, nhập vào thiền hành thứ tư, đạt được tâm Tam Ma Bạt Đề của thiền thứ tư, tâm nhu nhuyến, tâm tự tại, tâm tịch tĩnh, tâm sáng suốt, tâm ngay thẳng. Xả bỏ tất cả những lạc sự ấy cho các chúng sinh, và khi đoạn cho các chúng sinh kia an ổn thì ngay lúc ấy được thắng vô sinh nhẫn sáng suốt kia xuất hiện.
Đạt được thắng nhẫn sáng suốt kia xuất hiện nên khiến cho hành mau chóng. Ở trong thiền thứ tư thắng diệu lạc không sinh tâm lạc, xa lìa tâm lạc kia, xả niệm thanh tịnh, chỉ thấy hư không vô biên xuất hiện. Vượt qua tất cả sắc tướng, diệt hết tất cả các tướng hữu đối và không nghĩ đến các tướng. Biết vô biên hư không tức là nhập vào vô biên hư không.
Quán sắc như thế, đại khái có hai loại: Một là bốn đại, hai là nương gá vào bốn đại phát sinh. Bốn đại là đất, nước, gió, lửa. Nương gá vào bốn đại là sắc, hương, vị và xúc. Như vậy, rộng có tám loại sắc tướng. Lìa những sắc tướng ấy, không còn những sắc tướng ấy, diệt trừ tất cả các sắc tướng ấy gọi là vượt qua tất cả sắc tướng.
Theo những pháp nào có sắc tướng ấy?
Pháp ấy chắc có tướng đối ngại. Diệt tất cả tướng đối ngại ấy, không nghĩ, không hành các tướng khác mà có thể vượt qua các tướng khác, mà cũng không nghĩ đến các tướng khác đó, chỉ thấy tướng hư không. Cho nên biết rằng, vô biên hư không tức là nhập vào vô biên hư không hạnh. Do đó mà nói là vượt qua tất cả sắc tướng.
Nhập vào vô biên hư không tam muội kia rồi, sinh tâm như vậy: Hư không vô biên, hư không không biên giới, hư không không bờ bến, theo những pháp nào?
Vì vô biên nên pháp ấy không có sinh giới trước, sinh giới giữa và sinh giới sau. Như vậy, quán tất cả pháp đều không có sinh giới trước, giữa và sau. Nhập vào tam muội. Như thế, liền đối với tất cả chúng sinh khởi tâm đại từ bi, xả bỏ tất cả pháp, đạt được trí bình đẳng hiện tiền. Lúc bấy giờ, ở trong pháp vô sinh nhẫn kia mới đạt được thắng tiến sáng suốt hiện tiền.
Vượt qua tất cả tướng vô biên hư không và hiện tại biết tướng vô biên thức nhập vào hạnh Thức vô biên xứ. Sinh tâm thế này là tướng vô biên hư không, chỉ là do phân biệt thức tưởng. Đạt được tâm như thế này thì biết rằng các phap chỉ là tướng của thức, thức là thức vô lượng. Nhập vào tam muội như thế, đạt được vô sinh pháp nhẫn, nhưng chưa phải hoàn toàn thành tựu vô sinh pháp nhẫn.
Vượt qua tất cả chỗ vô biên thức tướng, hiện tại biết chỗ vô sở hữu, nhập vào hạnh chỗ vô sở hữu thiểu xứ. Vô sở hữu là không bị sở hữu bởi tâm tham, sân, si…, phân biệt, các loại phân biệt, hư vọng phân biệt.
Tất cả pháp hữu vi ở trong thế gian đều phát sinh từ tâm hư vọng phân biệt. Không sở hữu ấy nên nói là vô sở hữu. Thiểu là như trước đã nói, tướng ít, tướng nhỏ, tướng vi tế ở trong pháp…, gọi là tướng thiểu. Vì không có thiểu tướng ấy nên nói không thiểu.
Vượt qua tất cả tưởng thô tế nên nói vô sở hữu, vô sở thiểu, trú vào tam muội này, vô sinh pháp nhẫn chuyển thắng có ánh sáng hiện tiền. Vì được thắng vô sinh nhẫn ấy rồi mà không còn thích tam muội vô sở hữu, vô thiểu kia. Sinh tâm thắng dục cầu tăng thượng hạnh thù thắng tam muội. Sinh tâm như thế là tướng vô sở hữu, vô thiểu hạnh, cũng là tướng vi tế hư vọng phân biệt.
Tiếp theo quán Phi tưởng và phi phi tưởng xứ.
Những gì là phi tưởng, phi phi tưởng xứ?
Phi tưởng là không. Phi phi tưởng là từ nhân duyên sinh. Lúc ấy, phi tưởng phi phi tưởng tam muội hiện tiền. Vượt qua tất cả thiểu tướng Vô sở hữu xứ, nhập vào phi tưởng phi phi tưởng xứ tam muội rồi, trú ở chỗ ấy. Sinh tâm như thế thì phi tưởng phi phi tưởng xứ kia không thể vui được, nên xa lìa pháp ấy, tức là chứng nghiệm được các pháp không sinh, không diệt tam muội hiện tiền.
Biết được tất cả pháp không sinh, không diệt, thấy các pháp tự tánh tịch diệt, không hành, không trụ. Khi đó, gọi là đạt được vô sinh pháp nhẫn thanh tịnh thắng thượng. Đó gọi là chín thứ tự nhập vào Tam ma đạt đề.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm thành tựu hoàn toàn định pháp như thế, cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Nhà Vua hỏi: Thưa Đại Sư! Thế nào là tướng giải thoát của Như Lai?
Đáp: Đại Vương! Tướng giải thoát của Sa Môn Cù Đàm có tám loại:
1. Có sắc thấy sắc.
2. Trong có sắc tướng thấy sắc ở ngoài.
3. Tín thanh tịnh.
4. Vượt tất cả sắc tướng, diệt trừ tất cả các tướng hữu đối, không nghĩ các tướng khác. Biết hư không vô biên tức là nhập vào hạnh hư không vô biên.
5. Vượt qua tất cả tướng hư không vô biên. Biết vô biên thức tức là nhập vào hạnh Vô biên thức.
6. Vượt qua tất cả tướng vô biên thức, biết không còn một chỗ nào cả, tức nhập vào hạnh Vô sở hữu xứ.
7. Vượt qua tất cả Vo sở hữu xứ, biết phi hữu tưởng phi vô tưởng an ổn, tức là nhập vào hạnh Hữu tưởng và vô tưởng xứ.
8. Vượt qua tất cả hạnh phi hữu tưởng và phi vô tưởng, diệt trừ tất cả thọ tưởng, nhập vào hạnh Diệt tận định. Đó gọi là tám giải thoát.
Có sắc thấy sắc: Có sắc là pháp do nhân duyên sinh, thấy không là không tuổi thọ. Có khả năng thấy như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Trong có sắc tướng thấy sắc ở ngoài thấy sắc ở ngoài là thấy không, không có tuổi thọ đều là pháp do nhân duyên sinh. Có khả năng thấy như vậy, được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Tín thanh tịnh, là nếu phân biệt tướng tịnh và bất tịnh thì gọi là kiến. Vì tin thanh tịnh, nên được giải thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Vượt qua tất cả sắc tướng là diệt trừ tất cả tướng hữu, đối đãi, không nghĩ phân biệt tướng khác, thoát khỏi trói buộc, nên gọi là giải thoát.
Người biết hư không vô biên, liền nhập vào hạnh hư không vô biên, có thể biết vô lượng hư không như thế thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Vượt qua tất cả tướng hư không vô bien, biết vô biên thức liền nhập vào hạnh vô biên thức, vô lượng thức, vô biên thức. Vô biên thức này tức là không. Có khả năng biết như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, đó gọi là giải thoát.
Vượt qua vô biên thức, biết không có chút nào cả liền nhập vào hạnh vô sở hữu. Sở hữu là phiền não tham, sân, si. Nhập vào hạnh vô sở hữu thì diệt trừ được phiền não kia. Có khả năng biết như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Vượt qua vô sở hữu, biết an ổn ở trong phi hữu tưởng, phi vô tưởng liền nhập vào hạnh Phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Phi hữu tưởng là tánh vốn rỗng không, vắng lặng. Phi vô tưởng là do nương vào nhân duyên mà có. Có khả năng nhận biết như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Vượt qua tất cả phi hữu tưởng, phi vô tưởng, chấm dứt tất cả tưởng thọ, nhập vào hạnh diệt tận định. Như vậy, thấy tưởng như ánh nắng, thọ như bong bóng nước, tưởng tức là thọ, thọ tức là tưởng, không thể thọ, không người biết. Có khả năng thấy như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm hoàn toàn thành tựu giải thoát như thế, cho nên ta nói Ngài không có lỗi lầm.
Nhà Vua hỏi: Thưa Đại Sư! Thế nào là thần thông trí hạnh của Như Lai?
Đáp: Đại Vương! Thần thông của Sa Môn Cù Đàm có sáu thứ:
1. thiên nhãn thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Tha tâm thông.
4. Túc mạng thông.
5. Như ý thông.
6. Lậu tận thông.
Đại Vương! thiên nhãn của Sa Môn Cù Đàm vượt hẳn thiên nhãn của tất cả Trời, Rồng, tám bộ, Thanh Văn và Duyên Giác. Thấy rõ tất cả trong mười phương do công đức trí tuệ mà thành, đều thấy cảnh sắc, ánh sáng.
Những hình tượng hoặc thô, hoặc tế, hoặc gần hoặc xa trong mười phương, tất cả đều thấy, phân biệt rõ ràng ở trong ấy có các chúng sinh, sinh tử tương trụ khắp mọi nẻo.
Hoặc nghiệp quả phân biệt, các căn đều biết không sót và cũng thấy được Quốc Độ trang nghiêm tịnh diệu của Chư Phật trong mười phương Thế Giới. Ở trong ấy đều thấy không khác việc tu tịnh nghiệp của Bồ Tát, Thanh Văn và chúng sinh trong năm đường.
Vì sao?
Vì mắt thanh tịnh thấy không còn bị ngăn ngại, vì mắt không cấu đục, không đắm trước sắc. Vì mắt đã giải thoát, xa lìa sự trói buộc của các kiến hoặc phiền não. Vì mắt thanh tịnh, tánh sáng suốt thông tỏ. Vì mắt không thiển cận, lìa bỏ sở duyên.
Vì mắt không phát khởi, đoạn dứt phiền não. Vì mắt không cấu nhiễm, đoạn đứt các điều ác. Vì mắt không bị màng, cắt đứt lưới nghi. Vì mắt không sinh khởi, dứt chướng ngại.
Mắt này không tham, sân, si, đoạn trừ tất cả các kết sử vì mắt sáng suốt, thấu tỏ được pháp. Vì mắt do niệm mà biết, không hành theo thức. Vì mắt này Vô thượng rốt ráo đạo Thánh. Vì mắt không ngại bình đẳng chiếu khắp chúng sinh. Vì mắt không nhiễm, tánh thanh tịnh.
Vì sao?
Vì Sa Môn Cù Đàm bằng tâm đại bi, khéo phân biệt nghĩa, không có sự tranh luận, nói theo sự thấy và nghe, bỏ tâm bất thiện, thẳng đến Đạo Tràng, tâm không chướng ngại. Thấy người keo kiệt, tham lam có thể dạy họ đem tài sản bố thí.
Thấy người phạm giới khuyên họ giữ gìn các căn. Thấy người sân hận khuyên họ nhẫn nhục, không tranh cãi. Thấy người lười biếng khuyên họ siêng năng tinh tấn. Thấy người tán loạn dạy họ niềm vui trong thiền định. Thấy người ngu si dạy họ tu trí tuệ, cho nên đạt được thiên nhãn thanh tịnh, không chướng ngại. Đó gọi là thiên nhãn thần thông trí hạnh.
Đại Vương! Thiên nhĩ thông của Sa Môn Cù Đàm, đối với tất cả những tiếng nói trong các Thế Giới khắp mười phương như tiếng nói của Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân phi nhân thảy đều phân biệt được.
Và biết được tiếng của Chư Phật thuyết pháp, tiếng nói của Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Tất cả những tiếng nói có thể dùng tai nghe được.
Cho đến các tiếng của địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, muỗi mòng, ruồi nhặng và bọ chét đều có thể nghe được. Nếu tâm các chúng sinh duyên với đối tượng nào rồi phát ra âm thanh từ thiện ác hay vô úy thì cũng đều biết rõ cả. Các âm thanh quá khứ, hiện tại và vị lai đều nghe hết đến tận ngọn ngành.
Vì sao?
Vì Sa Môn Cù Đàm an trụ trong đại bi, có thể nghe các âm thanh không bị chướng ngại, đoạn diệt các phiền não tập khí. Đó gọi là thiên nhĩ thần thông trí hạnh.
Đại Vương! Tha tâm thần thông trí hạnh của Sa Môn Cù Đàm, thâu nhiếp toàn bộ chúng sinh và tâm niệm của họ.
Nghĩa là, tâm thiện, tâm bất thiện, tâm vô úy, tâm thuận theo phiền não, tâm trái với phiền não, tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật, tâm Bồ Tát, tâm Phật, tâm Trời, tâm Rồng, tâm Dạ Xoa, tâm Càn Thát Bà, tâm A Tu La, tâm Ca Lâu La, tâm Khẩn Na La, tâm Ma Hầu La Già, tâm người, tâm chẳng phải người, tâm địa ngục, tâm súc sanh, tâm ngạ quỷ, tâm Diêm la xử chúng sinh, tâm quá khứ, tâm vị lai… thảy đều phân biệt biết được.
Sa Môn Cù Đàm an trụ trong tâm đại bi có thể biết tâm người khác không chướng ngại, không có những phiền não, đoạn trừ những tập khí, thấu tỏ các pháp. Có khả năng hiểu rõ như thế gọi là tha tâm thần thông trí hạnh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba