Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Mười Bảy - Phẩm Ba Mươi Kệ - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP TÁM

TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ  

CHƯƠNG MƯỜI BẢY

PHẨM BA MƯƠI KỆ  

PHẦN HAI  

Khi các Tỳ Kheo nói rằng chính du sĩ Dìghanakha, được Thế Tôn Giảng dạy, được sửa soạn bởi hành động quá khứ, có thể làm nhiệm vụ ấy, Sàriputta can thiệp, nói rằng không phải:

Thế Tôn, bậc có mắt,

Thuyết pháp cho người khác,

Khi pháp được thuyết giảng,

Ta lắng tai nhiệt tình.

Ta nghe, không uổng phí,

Giải thoát không lậu hoặc,

Không cần biết đời trước,

Không cần được thiên nhãn.

Ta không có phát nguyện,

Chứng được tha tâm thông,

Biết chúng sanh sống chết,

Hay nhĩ giới thanh tịnh.

Ba câu kệ tiếp được nói lên về Ngài, khi Sàriputta trú ở Tinh Xá hang bồ câu, không có bị thương khi bị quỷ Dạ Xoa đánh:

Ngồi dưới một gốc cây,

Ðầu trọc, đắp đại y,

Trưởng Lão tuệ đệ nhất,

U Pa Tis tu thiền.

Ðầy đủ thiền vô tầm

Ðệ tử bậc Chánh Giác,

Với im lặng bậc Thánh,

Ngay lúc ấy, đạt được

Giống như ngọn núi đá,

Không động, khéo vững trú,

Cũng vậy, vị Tỳ Kheo,

Ðã đoạn diệt si ám,

Vị ấy như ngọn núi,

Không có bị dao động.

Một hôm, bậc Trưởng Lão không chú tâm, để tấm y rơi xuống.

Một Sa Di nói: Thưa Tôn Giả y cần phải đắp xung quanh thân mình.

Tôn Giả tán thán lời nói của người Sa Di và đắp lại tấm y trên thân.

Và nói lên điều lỗi của mình, Ngài nói bài kệ:

Người không có uế nhiễm,

Luôn tầm cầu thanh tịnh,

Ác nhẹ như đầu lông,

Xem nặng như mây Trời.

Rồi Ngài nêu rõ sự xả ly của Ngài đối với vấn đề sống chết.

Ta không hoan hỷ chết,

Ta không hoan hỷ sống,

Ta sẽ bỏ thân này,

Tỉnh giác và chánh niệm.

Ta không hoan hỷ chết,

Ta không hoan hỷ sống,

Ta sẽ bỏ thân này,

Như thợ làm việc xong.

Rồi khi thuyết pháp, Ngài nói lên những bài kệ:

Cả hai chết, không chết,

Sau đời hay trước đời,

Hãy dấn thân tiến bước,

Chớ để hư, uổng phí,

Dầu một khắc, sát na,

Chớ để uổng phí qua.

Như ngôi thành biên địa,

Ðược bảo vệ trong ngoài,

Như vậy, hộ tự ngã,

Chớ để phí sát na,

Sát na qua, sầu muộn,

Chịu khổ trong địa ngục.

Rồi một hôm, thấy Tôn Giả MahaKotthita, Ngài nói lên ba câu kệ, tán thán khả năng tốt đẹp của MahàKotthita.

Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,

Ðọc chú, không cống cao,

Quét sạch các ác pháp,

Như gió quét lá cây.

Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,

Ðọc chú, không cống cao,

Gạt ngoài các ác pháp,

Như gió quét lá cây.

Ðạt tịch tịnh an lặng,

Ý trong sáng không nhiễm,

Bậc trì giới trọn lành,

Có thể dứt đau khổ.

Câu kệ tiếp nói về các Tỳ Kheo xứ Vajjì tin tưởng ở Devadatta và chấp nhận giáo lý của Devadatta:

Có người không ai tin,

Tại gia hay xuất gia,

Những ai trước là tốt,

Về sau trở thành xấu,

Hoặc trước là người xấu.

Sau trở thành người tốt.

Hạng Tỳ Kheo tham dục,

Sống hôn trầm thụy miên,

Trạo cử và nghi ngờ,

Tâm đủ năm phiền não.

Với ai, đối cả hai,

Ðược trọng, không được trọng,

Thiền định, không dao động,

An trú không phóng dật.

Thiền tư luôn kiên trì,

Tuệ quán, kiến tế nhị,

Ưa thích chấp thủ diệt,

Vị ấy gọi chân nhân.

Ðể phân biệt sự sai khác, lấy Bổn Sư và mình làm thí dụ, Ngài nói lên những bài kệ như sau:

Biển lớn và đất lớn,

Núi và các phương Trời,

Không ví dụ sánh được,

Phật, giải thoát thù thắng.

Trưởng Lão chuyển pháp luân,

Bậc đại trí, thiền định,

Như đất, nước và lửa,

Không tham không ghét bỏ.

Ðạt được tuệ tối thắng,

Ðại giác, đại Mâu Ni,

Không chậm, tỏ chậm chạp

Thường sống thật thanh lương.

Ðể nêu rõ bổn phận của Ngài đã làm xong, Ngài nói:

Ta hầu hạ Bổn Sư,

Lời Phật dạy làm xong,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Gốc sanh hữu nhổ sạch.

Và khi Ngài sắp nhận Niết Bàn, Ngài giảng dạy các Tỳ Kheo đang họp xung quanh Ngài như sau:

Tinh cần, chớ phóng dật,

Ðây lời giáo huấn ta!

Ta sẽ nhập Niết Bàn,

Ta thoát mọi sanh y.

Trong thời Đức Phật tại thế, Ngài sanh trong gia đình Thích Ca Amitedana. Vì các bà con nói Ngài sanh đem hoan hỷ cho gia đình, nên được đặt tên là Ananda Khánh Hỷ.

Khi lớn lên, các sự kiện xuất gia, giác ngộ, chuyển pháp luân được diễn ra, và sau khi Thế Tôn viếng thăm Kapilavatthu, Ngài xuất gia với Bhaddiya và các người khác và được Thế Tôn thế độ cho.

Sau khi nghe bài Thuyết Pháp của Punna Mantàni, Ngài chứng được Sơ Quả.

Trong hai mươi năm đầu, Thế Tôn không có thị giả riêng, khi thì Nàgasamàla, khi thì Nàgita, khi thì Upavàna, Sunakkhatta, Sa Di Cunda, Sàgata, Meghiya.

Thế Tôn không có lựa chọn ai làm thị giả đặc biệt. Sau Thế Tôn khi đã năm mươi sáu tuổi, gợi ý muốn có một thị giả thường trực, có Tỳ Kheo đề nghị Ananda và Ananda chỉ nhận lời nếu Thế Tôn chịu từ chối bốn việc và chấp nhận bốn việc.

Từ chối không cho Ananda, y, đồ ăn, một phòng riêng và mời ăn, vì nếu không từ chối thời Ananda bị hiểu lầm là hầu hạ Thế Tôn để được y, đồ ăn khất thực, phòng xá và mời ăn.

Chấp nhận cho Ananda bốn việc là nếu Ananda được mời ăn, Thế Tôn bằng lòng đi dự.

Thế Tôn bằng lòng gặp những người từ xa đi đến và do Ananda giới thiệu.

Thế Tôn chấp nhận cho Ananda yết kiến nếu Ananda gặp phân vân khó xử.

Thế Tôn sẽ giảng lại những giáo lý Ngài dạy khi Ananda vắng mặt.

Nếu Thế Tôn không chấp nhận bốn điều này, thời sự hầu hạ của Ananda không đem lại thiện quả gì.

Thế Tôn chấp nhận điều Ananda yêu cầu.

Từ hôm ấy, Ananda hầu hạ Thế Tôn, đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa chân, đi theo Thế Tôn, quét phòng cho Thế Tôn. Ban ngày, Ananda ở một bên Đức Phật, nhắc nhở những điều cần làm.

Ban đêm cầm đèn và gậy. Ananda đi xung quanh phòng Đức Phật sẵn sàng đáp ứng nếu Thế Tôn có gọi.

Thế Tôn tại Jetavana, xác chứng Ananda là vị Tỳ Kheo đệ nhất về năm phương diện: Ða văn, tâm tư cảnh giác, sức mạnh đi bộ, lòng kiên trì và sự hầu hạ chu đáo. Như vậy, Ananda sau khi Thế Tôn nhập diệt vẫn chưa chứng quả A La Hán, và đêm trước khi kỳ kiết tập thứ nhất được tổ chức, Ngài phát tâm tinh cần tinh tấn, thiền quán suốt đêm, trong mái hiên nhưng chưa có hiệu quả.

Rồi Ngài vào phòng ngồi trên giường, muốn nằm xuống và khi đầu chưa đụng chiếc gối, chân chưa rời khỏi đất, trong khoảng thời gian ấy, Ngài chứng được quả A La Hán.

Rồi Ngài bước vào phòng kiết tập.

Các câu kệ của Ngài được góp thâu lại và để vào trong tập Trưởng Lão Tăng Kệ, khi Khuddaka Nikàya Tiểu Bộ Kinh được tụng đọc.

Những bài kệ đầu được nói lên, khi Ngài khuyên các Tỳ Kheo thường thân cận với kẻ theo Devadatta:

Hai lưỡi và phẫn nộ,

Xan tham, thích phá hoại,

Bậc trí không giao du,

Kẻ ác bạn kẻ xấu.

Với bậc tín, dễ thương,

Với bậc trí, nghe nhiều,

Bậc Hiền Trí, giao du,

Kẻ thiện bạn chân nhân.

Các bài kệ sau được nói lên khi nữ cư sĩ Uttarà, vì nàng đẹp nên thiên về dục vọng và được nói lên để nàng thấy sự mỏng manh của thân nàng.

Có người nói các bài kệ này nói lên cho những ai đắm say Ambapàli:

Hãy xem bóng trang sức,

Nhóm vết thương tích tụ,

Bệnh hoạn nhiều tham tưởng,

Nhưng không gì trường cửu.

Hãy nhìn sắc trang sức,

Với châu báu vòng tai,

Bộ xương, da bao phủ

Sáng chói nhờ y phục.

Hai câu Kệ tiếp được vị Trưởng Lão nói lên khi chứng quả A La Hán, đêm ấy trên giường của mình:

Nghe nhiều, diễn thuyết giỏi,

Thị giả bậc Giác giả,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Ràng buộc được thoát ly,

Bậc họ Gotama,

Ðặt lưng nằm xuống nghỉ.

Các lậu hoặc đoạn tận,

Ràng buộc được thoát ly,

Mọi chấp trước vượt qua,

Khéo đạt được thanh lương,

Gánh vác thân cuối cùng,

Ðến bờ kia sanh tử.

Pháp an trú trong ấy,

Phật bà con mặt Trời,

Trên đường đến Niết Bàn

Gotama an trú.

Một hôm Moggallàna người chăn bò, hỏi Ngài lời dạy của Đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả.

Vị Trưởng Lão trả lời:

Ta nhận từ Đức Phật,

Tám mươi hai ngàn pháp,

Còn nhận từ Tỳ Kheo,

Thêm hai ngàn pháp nữa,

Tổng cộng tám tư ngàn,

Là pháp ta chuyển vận.

Một hôm, vị Trưởng Lão nói cho một người sống bê tha phóng đãng sự nguy hiểm của một đời sống không giáo dục văn hóa:

Người ít nghe ít học,

Lớn già như con bò,

Những thịt nó lớn lên,

Trí tuệ nó không lớn.

Những bài kệ tiếp nói cho vị Tỳ Kheo khinh khi những người ít học thua mình:

Người học nhiều khinh miệt,

Kẻ học ít về học,

Như người mù mang đèn,

Ta có ý là vậy.

Hãy kính người nghe nhiều,

Chớ hại điều sở học,

Ðấy cội gốc phạm hạnh,

Do vậy, hãy trì pháp.

Biết câu trước câu sau,

Biết nghĩa, giỏi từ cú,

Nắm giữ điều khéo nắm,

Suy tìm trên nghĩa lý.

Chính nhờ đức kham nhẫn,

Sở nguyện được tác thành,

Sau khi đã tinh tấn,

Vị ấy lại cân nhắc,

Ðúng thời, ra nỗ lực,

Nội tâm khéo định tĩnh.

Nghe nhiều, thọ trì pháp

Có tuệ, đệ tử Phật,

Chờ đợi thức tri pháp,

Nên thân cận vị ấy.

Nghe nhiều thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại Ẩn Sĩ,

Cặp mắt, toàn Thế Giới,

Hãy lễ vị nghe nhiều.

Ưa pháp, vui thích pháp,

Luôn suy tư chánh pháp,

Tỳ Kheo nhớ niệm pháp,

Diệu Pháp không tổn giảm.

Một hôm, Ngài đốc thúc vị Tỳ Kheo dao động, biếng nhác như sau:

Thân ích kỷ nặng chăng,

Không có ưa hoạt động,

Thời gian mòn mỏi qua,

Không thể đứng dậy sao?

Tham đắm theo thân lạc,

Từ đâu, Sa Môn lạc?

Những câu Kệ sau, Trưởng Lão Ananda đọc lên khi nghe tin Sàriputta mệnh chung:

Mọi phương đều mờ mịt,

Pháp không khỏi nơi ta,

Người bạn tốt đã đi,

Tối tăm lan tràn khắp.

Người bạn đã đi qua,

Ðạo Sư đã đi qua,

Bạn như vậy không còn,

Như quán thân hành niệm.

Các vị xưa đã qua,

Vị mới ta không hạp,

Nay một mình ta thiền,

Như chim, khi mưa đến.

Câu kệ tiếp là của bậc Ðạo Sư.

Câu tiếp là của Ananda, hoan hỷ làm theo lời vị Ðạo Sư:

Từ các địa phương khác,

Nhiều người yết kiến ta,

Chớ ngăn họ nghe pháp,

Nay thời họ gặp Ta.

Từ các địa phương khác,

Quần chúng đến yết kiến,

Bổn Sư cho họ dịp,

Ðể được yết kiến Ngài.

Bậc có mắt không có,

Từ chối ngăn chận ai.

Năm câu kệ tiếp nêu rõ Ngài là bậc thị giả đệ nhất:

Trải hai mươi lăm năm

Ta chỉ là hữu học,

Dục tưởng không khởi lên,

Hãy xem pháp, pháp tánh.

Trải hai mươi lăm năm,

Ta chỉ là hữu học,

Sân tưởng không khởi lên,

Hãy xem pháp, pháp tánh.

Trải hai mươi lăm năm,

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với thân nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

Trải hai mươi lăm năm

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với khẩu nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

Trải hai mươi lăm năm,

Ta hầu hạ Thế Tôn,

Với ý nghiệp từ hòa,

Như bóng không rời hình.

Khi Đức Phật kinh hành,

Ta đi theo sau lưng,

Khi pháp được thuyết giảng,

Trí khởi lên nơi ta.

Ta vẫn còn là người,

Có việc cần phải làm,

Ta chỉ là hữu học,

Tâm ý chưa chứng đạt,

Ðạo Sư nhập Niết Bàn,

Ai sẽ từ mẫn ta.

Như vậy thật khủng khiếp

Như vậy thật kinh hoàng,

Khi bậc toàn tuyệt hảo,

Bậc Giác Ngộ Niết Bàn.

Ba câu kệ tiếp, do các vị dự kỳ kiết tập thêm vào để tán thán Trưởng Lão Ananda:

Nghe nhiều, thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại Ẩn Sĩ,

Cặp mắt toàn Thế Giới,

Anan nhập Niết Bàn.

Nghe nhiều, thọ trì pháp,

Hộ tạng Ðại Ẩn Sĩ,

Cặp mắt toàn Thế Giới

Ðoạn ám chỗ tối tăm.

Ngài là bậc Ẩn Sĩ,

Với hành vị tuyệt hảo,

Với chánh niệm tuyệt hảo,

Với kiên trì tuyệt hảo,

Thọ trì chân diệu pháp,

Là Trưởng Lão A Nan,

Là kho tàng sống động,

Ðầy châu báu ngọc ngà.

Câu Kệ này được Ananda nói lên khi nằm trên giường, trong giờ phút cuối cùng:

Ta hầu hạ Bổn Sư,

Lời Phật dạy làm xong,

Gánh nặng đã đặt xuống,

Gốc sanh hữu nhổ sạch.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần