Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Tập địa Tạng Thập Luân - Phẩm Bốn - Phẩm Hữu Y Hành - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA
ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Huyền Trang, Đời Đường
PHẨM BỐN
PHẨM HỮU Y HÀNH
PHẦN HAI
Này thiện nam tử! Ông xem các vị Sát Đế Lợi và vô lượng hữu tình này thân cận những người phá giới, làm việc xấu ác, chẳng phải là bậc pháp khí, ở trong Tăng sẽ bỏ mất tất cả những pháp lành đã có, cho đến sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Vì vậy, muốn được sanh thiên, chứng quả Niết Bàn an vui thù thắng đều phải thân cận phụng sự, cúng dường các vị Sa Môn Thắng Đạo, thưa hỏi, lắng nghe giáo pháp ba thừa, hoặc mong cầu Sa Môn thị đạo, mạng đạo.
Nếu không gặp ba hạng Sa Môn này thì mong cầu Sa Môn ô đạo. Tuy hạng Sa Môn này phá giới mà có chánh kiến, đầy đủ ý lạc và gia hạnh nên vẫn đến thân cận phụng sự, cúng dường, thưa hỏi, lắng nghe giáo pháp ba thừa.
Không nên thân cận phụng sự, cúng dường người có gia hạnh, ý lạc, kiến hoại. Tuy hạng Sa Môn kia giới hoại mà không có tà kiến, đầy đủ ý lạc, gia hạnh, kiến nên vẫn đến thưa hỏi, lắng nghe pháp Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa, đại thừa mà không nên khinh chê.
Tùy theo ý thích phát nguyện tinh tấn học một trong ba thừa, không khinh chê các thừa khác. Nếu người nào khinh chê một thừa cho đến một bài tụng trong ba thừa thì không nên thân cận, giao tiếp, hoặc cùng ở chung, cùng làm việc. Nếu thân cận hoặc giao tiếp, cùng ở chung, cùng làm việc, quyết định đều sẽ đọa địa ngục Vô gián.
Này thiện nam tử! Vì thế, nếu người nào muốn nương theo một trong ba thừa để mong cầu ra khỏi sanh tử, nhàm chán đau khổ, ưa thích an lạc thì nên nương vào chánh pháp Như Lai giảng thuyết, hoặc nương vào chánh pháp giảng thuyết của Thanh Văn thừa.
Hoặc nương vào chánh pháp giảng thuyết của Độc Giác thừa, hoặc nương vào chánh pháp giảng thuyết của đại thừa và có lòng tin kính sâu rộng, chớ sanh tâm phỉ báng làm chướng ngại, che mờ cho đến một bài tụng mà phải thường nên cung kính đọc tụng, lắng nghe giáo pháp, nên phát nguyện chân chánh, kiên cố, mong cầu chứng đắc.
Nếu ai tùy theo phỉ báng một pháp nào trong ba thừa thì không nên ở chung cho đến một đêm, không nên thân cận thưa hỏi giáo pháp.
Các hữu tình nào phỉ báng một trong ba thừa, hoặc là thân cận người phỉ báng ba thừa, thưa hỏi, lãnh thọ, do nhân duyên đó chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục vô gián, chịu khổ não lớn không có thời kỳ ra khỏi.
Vì sao?
Này thiện nam tử! Vì ở đời quá khứ, khi ta tinh tấn tu hạnh Bồ Tát, mong cầu chứng đắc trí vô thượng. Hoặc vì mong cầu mà nương vào chánh pháp giảng thuyết của Thanh Văn thừa cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não.
Hoặc vì mong cầu mà nương vào chánh pháp giảng thuyết của Độc Giác thừa, cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não.
Hoặc vì mong cầu mà nương vào chánh pháp giảng thuyết của đại thừa cho dù một bài tụng mà xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não.
Ta chịu khổ nhọc như vậy để mong cầu dù cho một bài tụng trong ba thừa rồi sanh tâm hoan hỷ, cung kính, lãnh thọ, gìn giữ, đúng như pháp tu hành, không lúc nào tạm bỏ, trải qua vô lượng kiếp tu tập tất cả hạnh khổ khó làm mới chứng được quả thắng trí vô thượng cứu cánh.
Lại vì lợi ích an lạc cho các hữu tình mà giảng thuyết chỉ bày chánh pháp ba thừa, vì nghĩa này không nên phỉ báng làm chướng ngại, ngăn che, cho đến một bài tụng. Thường phải cung kính đọc tụng, lắng nghe, phát nguyện chân chánh, kiên cố, mong cầu chứng đắc.
Này thiện nam tử! Như vậy, chánh pháp giải thoát của ba thừa này, tất cả hằng hà sa số Chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều giảng thuyết, dùng đại lực oai thần hộ trì.
Vì muốn cứu giúp khổ lớn sanh tử của tất cả hữu tình, vì muốn làm cho hạt giống Tam Bảo hưng thịnh, không để đoạn tuyệt nên đối với chánh pháp tam thừa này phải tin kính, chớ hủy báng, làm chướng ngại, ngăn che.
Nếu phỉ báng, làm chướng ngại, ngăn che chánh pháp ba thừa cho đến một bài tụng thì quyết định sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Lại nữa, này thiện nam tử! Vào đời vị lai, ở Cõi Phật này có hạng Sát Đế Lợi Chiên Trà La, Bà La Môn Chiên Trà La, Tể quan Chiên Trà La, Cư Sĩ Chiên Trà La, Sa Môn Chiên Trà La, Trưởng Giả Chiên Trà La, Phiệt xá Chiên Trà La, Mậu Đạt La Chiên Trà La, hoặc nam, hoặc nữ dua nịnh, dối trá, ngu si, ngã mạn cho là thông minh.
Tánh hung dữ, bạo ngược. Không thấy, không sợ quả khổ đời sau. Ưa thích sát sanh cho đến tà kiến, ganh tỵ, tham lam, bỏn xẻn, oán ghét bạn lành, thân gần bạn ác. Chẳng phải là pháp khí của bậc Hiền Thánh ba thừa.
Hoặc là người ít nghe và tu tập pháp Thanh Văn thừa, liền đối với pháp Độc Giác thừa, Vô Thượng thừa được Chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi.
Hoặc người ít nghe và tu tập pháp Độc Giác thừa liền đối với pháp Thanh Văn thừa, Vô Thượng thừa được Chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi.
Hoặc có người ít nghe và tu tập pháp Vô Thượng thừa liền đối với pháp Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa được Chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi.
Vì cầu danh lợi nên nói như vậy: Ta là đại thừa, là người theo đại thừa, chỉ thích nghe, tu tập, thọ trì đại thừa, không thích pháp Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa, không thích thân cận người học hai thừa.
Những người dối xưng là đại thừa như vậy là do ngu si, kiêu mạn, ỷ thế lực. Như vậy là hủy báng, làm chướng ngại, che mờ chánh pháp ba thừa, không làm cho lưu truyền, ganh ghét người tu học giáo pháp ba thừa, phỉ báng hủy nhục, làm cho không có oai lực.
Này thiện nam tử! Tất cả Chư Phật Thế Tôn và Chư Đại Bồ Tát trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại vì muốn làm lợi lạc cho tất cả hữu tình nên dùng lực đại bi hộ trì hai việc:
Một là muốn làm hưng thịnh dòng giống Tam Bảo, không để đoạn tuyệt, bỏ tục xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo Ca Sa.
Hai là giáo pháp Ba Thừa tương ưng với pháp bốn Thánh Đế. Đó là hai việc.
Nguyện xin Phật Thế Tôn và Chư Đại Bồ Tát hộ trì, chẳng phải các Thanh Văn, Độc Thắng Giác, cũng chẳng phải trăm ngàn vô số đại Phạm Thiên Vương và Thiên Vương Đế Thích, Chuyển Luân Vương bốn đại châu có thể hộ trì.
Ở đời vị lai trong cõi Phật này có Vua Sát Đế Lợi Chiên Trà La do nương pháp ta mà được xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo Ca Sa, tìm cách dò xét những lỗi lầm sai phạm của người khác, dùng các cách quở trách, hủy nhục hoặc dùng roi gậy.
Hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc đoạt lấy của cải, hoặc lột áo Ca Sa bắt hoàn tục làm các việc thế tục, hoặc đuổi đi quân dịch, hoặc lạm dụng sai khiến, hoặc không cho ăn uống, hoặc hại thân mạng.
Vua Sát Đế Lợi Chiên Trà La kia do ngu si, kiêu mạn, ỷ thế lực, hủy nhục, trách phạt các vị tu hành. Chư Phật Bồ Tát dùng sức đại bi hộ trì các đệ tử của ta. Họ phỉ báng, hủy diệt giáo pháp, Chư Phật Bồ Tát dùng sức đại bi hộ trì giáo pháp thậm thâm của ta.
Chư Phật Bồ Tát ba đời đã hộ trì chánh pháp ba thừa mà bọn chúng đã làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi.
Có vua Sát Đế Lợi Chiên Trà La cho đến Phiệt xá, Mậu Đạt La Chiên Trà La, người nam hoặc nữ ngu si, kiêu mạn, tự xưng là đại thừa, những người ấy còn chẳng phải là pháp khí hai thừa Thanh Văn, Độc Giác, huống là pháp khí Vô Thượng đại thừa.
Vì cầu lợi dưỡng, cung kính, danh dự mà dối gạt thế gian, ngu si tự nói: Chúng tôi là người đại thừa và hủy báng chánh pháp hai thừa của Như Lai. Những người này do ngu si, lừa gạt, kiêu mạn, ganh ghét, xan tham phá hủy pháp nhãn của ta làm cho mau ẩn mất.
Những người ấy đối với tất cả Chư Phật trong ba đời phạm tội lỗi lớn, cũng đối với tất cả Bồ Tát trong ba đời phạm tội lỗi lớn, lại đối với tất cả Thanh Văn trong ba đời phạm tội lỗi lớn, không bao lâu sẽ thiếu khuyết thân thể, mắc các bệnh nặng.
Vua Sát Đế Lợi Chiên Trà La kia cho đến Phiệt xá, Mậu Đạt La Chiên Trà La, người nam hoặc nữ, do tạo nghiệp ác, khởi tà kiến điên đảo nên tổn mất tất cả thiện căn đã có.
Mặc dù vào đời vị lai sẽ sanh vào ngạ quỷ, súc sanh nhưng vẫn hưởng được phước lạc vì có lúc đã tu tập nhiều phước đức.
Tuy nhiên thân ấy còn không thể phát sanh thiện căn hạ liệt ở Cõi Sắc, Vô Sắc, huống là có thể gieo trồng chủng tử thiện căn trí Nhất Thiết Trí vô công dụng khởi của Thanh Văn, Độc Giác và Vô Thượng thừa.
Lại cũng làm cho lưỡi của mình bị bệnh trong nhiều ngày, bị tê cứng không nói được, chịu các khổ sở, đau đớn, khó chịu nỗi, sau khi chết nhất định sẽ sanh vào Đại địa ngục Vô gián.
Vì thế, Như Lai từ bi thương xót tất cả Vua Sát Đế Lợi Hiền Thiện cho đến Mậu Đạt La Hiền Thiện, hoặc nam hoặc nữ. v.v… làm cho họ luôn luôn được lợi ích an lạc.
Như Lai ân cần nhắc nhở, dạy bảo như vậy: Các ngươi nên nương theo chánh pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo Ca Sa, cẩn thận chớ làm não loạn, trách mắng, quở phạt người xuất gia. Đối với chánh pháp ba thừa ta đã giảng dạy, thận trọng chớ có hủy báng, làm chướng ngại, che lấp. Nếu trái lời ta dạy mà cố ý làm thì mắc tội báo như đã nói rõ ở trước.
Vì sao?
Vì người nương theo giáo pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo Ca Sa đỏ, có hình tướng xuất gia, chính là người được Chư Phật Bồ Tát trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai dùng thần lực đại bi hộ trì.
Hình tướng oai nghi xuất gia, cạo râu tóc, mặc áo Ca Sa đỏ là tướng giải thoát của các Bậc Hiền Thánh, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng Thanh Văn thừa thọ dụng, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng Độc Giác thừa thọ dụng, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng đại thừa thọ dụng.
Chánh Pháp ba thừa do Như Lai giảng thuyết được Chư Phật Bồ Tát trong ba đời dùng thần lực đại bi hộ trì, là chỗ nương tựa để giải thoát của chư Hiền Thánh, cũng là chỗ nương tựa của tất cả Thanh Văn thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát, cũng là chỗ nương tựa của tất cả Độc Giác thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát, cũng là chỗ nương tựa của tất cả hàng đại thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên người mong cầu giải thoát phải thân cận, cung kính, cúng dường những người nương theo chánh pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo Ca Sa đỏ làm người xuất gia, trước phải tin kính giáo pháp Thanh Văn thừa, hoặc tự mình nghe lãnh thọ, dạy người nghe lãnh thọ.
Hoặc tự mình đọc tụng, dạy người đọc tụng. Hoặc tự mình biên chép, dạy người biên chép. Hoặc tự mình ban bố, dạy người ban bố. Hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người giảng thuyết. Tư duy tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp.
Cũng vậy, nên tin kính pháp Độc Giác thừa, hoặc tự mình nghe lãnh thọ, dạy người khác nghe lãnh thọ. Hoặc tự mình đọc tụng, dạy người đọc tụng.
Hoặc tự mình biên chép, dạy người biên chép. Hoặc tự mình ban bố, dạy người ban bố. Hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người giảng thuyết. Tư duy tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp.
Cũng vậy, nên tin kính pháp đại thừa, hoặc tự mình nghe lãnh thọ, dạy người khác nghe lãnh thọ. Hoặc tự mình đọc tụng, dạy người đọc tụng. Hoặc tự mình biên chép, dạy người biên chép.
Hoặc tự mình ban bố, dạy người ban bố. Hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người giảng thuyết. Tư duy tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp.
Nếu chẳng phải bậc pháp khí thì mình không nên nghe, cũng không được dạy người nghe, cho đến như đã nói rõ ở trước.
Lại nên xa lìa tất cả pháp ác, phải bỏ bạn ác, nên gần bạn lành, phải siêng năng tu tập sáu pháp Ba La Mật, nên thường sám hối tất cả nghiệp ác, nên tùy theo chỗ thích ứng phát hạnh nguyện chơn chánh.
Nếu có thể được như vậy thì ngay đời này được thành tựu pháp khí Thanh Văn thừa, hoặc không thối chuyển hạt giống Độc Giác thừa, hoặc không thối chuyển hạt giống đại thừa.
Thế nên phải tu tập cả Ba Thừa, không nên kiêu ngạo vọng xưng là đại thừa, phỉ báng pháp Thanh Văn, Độc Giác thừa.
Lúc đầu, ta chỉ vì pháp khí đại thừa mà kiên chí tu hành, nói lời như vậy là: Chỉ tu theo đại thừa mới có thể được rốt ráo. Thế nên Như Lai nói xưa nay không trái nhau.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn giải rõ lại nghĩa này nên nói bài tụng:
Ở trước các đại chúng
Kim Cang Tạng hỏi ta
Vì sao khuyên cúng dường
Bí Sô ác phá giới
Mất công đức Đầu Đà
Si mê chấp ác kiến
Ô đạo chẳng pháp khí
Mà không cho trách phạt
Lại nghe người ấy thuyết
Pháp vi diệu Ba Thừa
Thuốc hay chân giải thoát
Hướng Niết Bàn tịch tịnh
Vì sao Kinh khác nói
Chỉ đại thừa giải thoát
Ngăn học pháp nhị thừa
Nay lại nói ba thừa
Thương xót các hữu tình
Làm cho bỏ nghiệp ác
Được lợi ích an lạc
Xin giải nghi cho con
Làm lợi Sát Đế Lợi
Cho đến Mậu Đạt La
Không não loạn Bí Sô
Sợ họ mắc tội lớn
Cạo tóc, mặc Ca Sa
Là tướng pháp Chư Phật
Chư Phật thường hộ trì
Pháp phục đạo giải thoát
Tuy phá các luật nghi
Chẳng phải ngăn giải thoát
Hay xả các ác kiến
Sẽ mau đến Niết Bàn
Như thuốc tốt bị hư
Còn có thể trị bệnh
Như vậy phá luật nghi
Cũng diệt khổ cho người
Không cho Bí Sô kia
Cùng bố tát, Yết Ma
Được thuyết pháp cho người
Đều được phước không nghi
Nếu quy kính Tam Bảo
Tôn ta làm Đại Sư
Hay bỏ các điều ác
Còn hơn các ngoại đạo
Như vào đảo La Sát
Các thương nhân sợ hãi
Mỗi người cầm sợi lông
Qua biển được khỏi nạn
Cũng vậy, người phá giới
Xa lìa các tà kiến
Do lòng tin làm nhân
Khỏi La Sát phiền não
Tướng giải thoát như vậy
Chư Phật đều hộ trì
Không não người phá giới
Hay lìa các ác kiến
Những người thích nhiều phước
Vui cầu chơn giải thoát
Hộ pháp khí, chẳng khí
Chứng giải thoát không khó
Si mạn xưng đại thừa
Không có lực trí tuệ
Pháp nhị thừa còn mê
Huống là hiểu đại thừa
Ví như mắt mù lòa
Không thể thấy hình sắc
Như vậy mất đức tin
Không thể hiểu đại thừa
Không thể uống ao sông
Làm sao uống biển cả?
Không tập pháp nhị thừa
Làm sao học đại thừa?
Trước tin pháp nhị thừa
Sau mới tin đại thừa
Tụng đại thừa, không tin
Nói rỗng không, không ích
Bên trong chấp đoạn kiến
Vọng xưng là đại thừa
Không giữ gìn ba nghiệp
Làm hoại chánh pháp ta
Người này sau khi chết
Quyết định đọa vô gián
Nên quán căn cơ thuyết
Không căn cơ không thuyết
Kiêu ngạo không từ bi
Hung ác, chí thấp kém
Người trí phải nên biết
Người này là chấp đoạn
Không Thanh Văn, Duyên Giác
Cũng chẳng phải đại thừa
Lừa dối, phỉ báng Phật
Quyết đọa ngục vô gián
Trì giới ưa ồn ào
Xẻn pháp sợ khổ ác
Người trí phải biết rõ
Đó là Thanh Văn thừa
Bố thí quán sanh diệt
Ưa ở nơi thanh vắng
Người trí nên biết rõ
Đó là Độc Giác thừa
Đầy đủ các căn lành
Gìn giữ tâm từ bi
Ưa giáo hóa lợi sanh
Đó gọi là đại thừa
Giữ giới bỏ thân mạng
Không não hại chúng sanh
Tinh tấn cầu pháp không
Nên biết là đại thừa
Tâm kham nhẫn các pháp
Nói rõ không che giấu
Thường vui thích các pháp
Nên biết là đại thừa
Pháp khí, chẳng pháp khí
Tâm bình đẳng lợi lạc
Không nhiễm pháp thế tục
Nên biết là đại thừa
Thế nên người có trí
Cung kính thuyết ba thừa
Không làm não Chúng Tăng
Mau thành Vô Thượng Giác.
Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu có Sát Đế Lợi Hiền Thiện, Bà La Môn Hiền Thiện, Tể Quan Hiền Thiện, Cư Sĩ Hiền Thiện, Trưởng Giả Hiền Thiện, Sa Môn Hiền Thiện, Phiệt Xá Hiền Thiện, Mậu Đạt La Hiền Thiện, hoặc người nam, người nữ nào thành tựu mười luân nên làm theo, thì ngay trong đời hiện tại có thể mau gieo trồng hạt giống Thanh Văn thừa.
Làm cho không lui mất, hoặc ngay trong đời này thành tựu pháp khí bậc Thánh Thanh Văn thừa, chẳng phải pháp khí bậc Thánh Độc Giác thừa, đại thừa.
Thế nào là mười?
1. Đầy đủ đức tin thanh tịnh: Nghĩa là tin có tất cả nghiệp quả thiện ác.
2. Đầy đủ tàm quý: Nghĩa là xa lìa tất cả bạn ác, ác kiến.
3. An trú trong luật nghi: Nghĩa là tránh xa sát sanh cho đến uống rượu.
4. An trú tâm từ: Nghĩa là xa lìa tất cả sân giận làm não loạn.
5. An trú tâm bi: Nghĩa là cứu giúp tất cả hữu tình yếu đuối.
6. An trú tâm hỷ: Nghĩa là xa lìa tất cả bốn ác nghiệp về lời nói.
7. An trú tâm xả: Nghĩa là xa lìa tất cả tánh tham lam, ganh ghét.
8. Quy y chân chánh hoàn thiện: nghĩa là xa lìa tất cả vọng chấp, tốt xấu, hoàn toàn không quy y tà thần, ngoại đạo.
9. Đầy đủ đức tinh tấn: Nghĩa là kiên cố, dõng mãnh tu tập các thiện pháp.
10. Thương ưa thiền định: Nghĩa là tư duy tìm cầu nghĩa giáo pháp, vui thích không mỏi mệt.
Này thiện nam tử! Nếu có Sát Đế Lợi Hiền Thiện cho đến Mậu Đạt La Hiền Thiện, hoặc nam hoặc nữ thành tựu mười luân nên làm theo này, ngay trong đời này có thể mau gieo trồng hạt giống Thanh Văn thừa, làm cho không lui mất.
Hoặc ngay trong đời này chứng Thánh Pháp của Thanh Văn thừa, thành tựu pháp khí bậc Thánh Thanh Văn thừa, chẳng phải chứng Thánh Pháp Độc Giác, đại thừa.
Chẳng phải thành tựu pháp khí bậc Thánh Độc Giác, đại thừa. Nên biết, trong đây Độc Giác, đại thừa đều như trước đã nói.
Này thiện nam tử! Mười luân nên làm theo này, tất cả Thanh Văn, Độc Giác, Bồ Tát, Chư Phật Như Lai đều đồng có.
Này thiện nam tử! Lại có mười luân nên làm theo, không có ở Thanh Văn mà chỉ có ở các bậc Độc Giác, Bồ Tát, Như Lai: Nếu có Sát Đế Lợi Hiền Thiện cho đến Mậu Đạt La Hiền Thiện v.v… hoặc nam hoặc nữ nào thành tựu mười luân nên làm theo này, ngay trong hiện đời có thể mau gieo trồng hạt giống Độc Giác thừa, làm cho không lui mất. Hoặc ngay trong hiện đời chứng Thánh pháp của Độc Giác thừa, thành tựu pháp khí Độc Giác thừa.
Thế nào là mười?
1. Tu hành thanh tịnh các nghiệp về thân, ngữ, ý.
2. Đầy đủ tàm quý, nhàm chán thân mình.
3. Đối với năm thủ uẩn rất lo sợ.
4. Thấy dòng sông sanh tử rất khó vượt qua.
5. Thường ưa chỗ vắng vẻ, xa lìa nơi ồn ào.
6. Ưa thích nơi thanh vắng, không chê lỗi người.
7. Gìn giữ các căn, tâm thường tịch tịnh.
8. Khéo quán sát kỹ về nhân quả duyên khởi.
9. Thường ưa siêng năng tu tập đẳng trì tịnh lự.
10. Đối với pháp tập khởi hay khéo diệt trừ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba Mươi Tám - Pháp Hội đại Thừa Phương Tiện - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Cứu đầu Nhiên Thí
“Thầy an cư tại Tu viện, con an cư ở đâu?”
Phật Thuyết Kinh Tuệ ấn Tam Muội - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Sáu - Phẩm Danh Tự Công đức