Phật Thuyết Kinh đại Thừa đồng Tánh - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Da Xá, Đời Chu
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI THỪA ĐỒNG TÁNH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Da Xá, Đời Chu
PHẦN BA
Bấy giờ, Tỳ Tỳ Sa Na lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Nếu trong giáo pháp của Phật, có những kẻ được xuất gia mà không chịu giữ giới, hoặc có kẻ phạm giới, hoặc phá giới, phạm các hạnh ham muốn, hoặc có kẻ cởi áo pháp bỏ giới, về đời.
Bạch Thế Tôn! Những kẻ ngu si như vậy, họ được ví như gì?
Phật đáp: Này Lăng Già Vương! Trong giáo pháp của ta, nếu có những kẻ được xuất gia, được thọ giới pháp mà lại hủy phạm, thì những kẻ ngu si này sẽ phải đọa hết vào nẻo ác, chẳng khác như kẻ lái thuyền ở giữa biển khơi, lại phá hủy thuyền bè, hẳn sẽ phải chết chìm dưới nước.
Tỳ Tỳ Sa Na lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Nếu như có kẻ phá giới, phạm giới, phạm các hạnh ham muốn mà lại nói rằng, ta sáng suốt mạnh mẽ thực hành phạm hạnh. Lại có kẻ vứt áo pháp bỏ giới, trở về đời.
Những hạng người này, sau khi chết, có người được sinh vào nơi tốt, vậy họ giống như gì?
Như kẻ lái đò ở trong biển cả, thuyền bè đập nát, chết chìm trong biển nhưng cũng có người gặp được ván thuyền, có người gặp được xác chết, có người tự mình bơi.
Này Lăng Già Vương! Ông nên biết như vậy, nếu trường hợp người lái đò gặp được ván thuyền, cũng phải dựa vào sức thổi của gió mới được cập đến một hòn đảo nào đó. Trường hợp gặp được xác chết, phải được sóng biển xô đẩy dần dần mới cập đến bờ.
Vì sao?
Bởi vì theo phép của biển, thì biển không chấp nhận xác chết. Còn trường hợp tự mình bơi, thì anh ta sẽ phải tự lực mới cập đến một nơi nào đó. Đó là những người được thần biển từ bi cứu giúp.
Cũng vậy, này Lăng Già Vương! Nếu ai được xuất gia trong giáo pháp của ta, mà không như pháp bảo vệ giữ gìn giới, hoặc xả bỏ áo pháp, mặc y phục của người đời, mà được sống ở chỗ tốt lành. Hoặc do ở bên cạnh ta mà đặt được lòng tin chân chánh.
Hoặc bên trong trở lại thanh tịnh. Hoặc tuy phá giới mà thường làm các việc lành, hoặc có sự sáng suốt mạnh mẽ.
Lăng Già Vương! Tuy là phá giới hay trở lại đời, nhưng vẫn là các nhân sẽ trở lại với pháp ta, nên được sinh nơi tốt lành.
Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Khi xưa gây ra bao nghiệp tội
Trong muôn đời vô số ức kiếp
Ăn năn hối cải không tạo nữa
Dứt, không tăng trưởng, sẽ trong sạch.
Tỳ Tỳ Sa Na lại hỏi Phật: Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu pháp trợ bồ đề vậy?
Phật đáp: Này Lăng Già Vương! Có ba mươi bảy phẩm làm pháp trợ bồ đề.
Ba mươi bảy phẩm đó là gì?
Đó là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác phần và tám Thánh đạo.
Lăng Già Vương! Đó chính là ba mươi bảy pháp trợ bồ đề.
Lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Giải thoát môn có mấy?
Lăng Già Vương! Giải thoát môn có ba, đó là không, vô tướng, vô nguyện.
Hỏi: Bạch Thế Tôn! Nên nhớ nghĩ đến pháp gì?
Phật đáp: Nên nhớ nghĩ sự chán, diệt và nhập Niết Bàn.
Lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Pháp đối trị gồm có mấy?
Phật đáp: Lăng Già Vương!
Nhìn chung có ba pháp đối trị, đó là: Đối với người có tâm tham dục thì quán không sạch. Người có tâm sân tức thì quán lòng lành thương xót. Người có tâm ngu si thì quán nhân duyên.
Đó là ba pháp đối trị.
Lại hỏi Phật: Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu khả năng khéo léo cần để giữ gìn sự nhớ nghĩ?
Phật đáp: Lăng Già Vương! Nếu để giữ sự nhớ nghĩ thì cần phải khéo biết các ấm, khéo biết các giới, khéo biết các nhập, khéo biết các phương tiện.
Lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Nên quán pháp gì?
Phật đáp: Lăng Già Vương! Nên quán mười hai pháp nhân duyên sâu xa cùng với nhân quả của bốn Thánh Đế.
Khi ấy, Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na lại đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi đem các loại hoa bảy báu, đủ màu sức, tung rải lên Thế Tôn.
Sau khi tung hoa, gối phải chạm đất, Vua chắp tay hướng Phật, cung kính, khen ngợi Thế Tôn, rồi nói bài kệ:
Thế nào là Thánh hạnh của Bồ Tát
Ý sinh, tinh tấn làm lợi thế gian
Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn
Phát khởi ý cao tột là bồ đề.
Khi mong cầu trí tuệ vô lậu kia
Nhiếp hóa vô lượng các hàng chúng sinh
Các vật báu trang nghiêm không vẩn đục
Trong cõi nhiệm mầu được thành quả Phật.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na: Thật lành thay! Này Lăng Già Vương! Nếu có khả năng hỏi Như Lai việc này, ông hãy cố gắng lắng lòng nghe, suy nghĩ cho thật kỹ, ta sẽ vì ông mà giải đáp.
Này Lăng Già Vương! Hàng Đại Bồ Tát thường thực hành sáu Ba la mật nên đối với chúng sinh, không bao giờ sinh tâm ác cả.
Lăng Già Vương! Hàng Bồ Tát khi tu hành các pháp này, thì không giảm, không thiếu, thường có được sự tăng trưởng trong giáo pháp của Chư Phật, cũng không bị dính mắc ở nơi pháp thế gian, thu nhận chỉ dạy cho vô lượng chúng sinh, cũng có khả năng làm trong sạch Cõi Phật, lại có khả năng đạt trọn vẹn đại thừa đồng tánh, ở trong Phật Pháp không còn sự chướng ngại.
Khi ấy, Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na thưa: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tu hành?
Thế nào là được trụ vào Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác?
Phật đáp: Hãy buông bỏ sự kiêu ngạo, khinh người, hống hách, ghen ghét. Thường thực hành bốn pháp phạm hạnh trong sạch, thường vì khắp tất cả chúng sinh mà vui vẻ tu hành chánh chân. Phải xả bỏ sát sinh, trộm cướp, nói dối, nói lời thêu dệt, nói hai lưỡi, nói lời ác xấu, uống rượu, dâm dật.
Chớ để mất dù chốc lát tâm bồ đề, ý luôn vui vẻ siêng năng thực hành sáu Ba la mật. Những việc làm thảy đều vì sự an vui cho các chúng sinh. Tâm thường vắng lặng trong sự đối đãi, muốn độ thoát mọi sự sợ hãi trong biển khổ trần lao. Ông nên chân chánh quán sát chúng sinh trong ba cõi, khiến cho họ được độ thoát.
Lại nữa, này Lăng Già Vương!
Nếu như muốn cầu bồ đề, ông cần phải biết như vậy: Bồ đề chỉ là cái tên dựa vào ngôn ngữ để đặt ra là bồ đề.
Vì sao?
Lăng Già Vương! Không hữu là bồ đề, không căn là bồ đề, không trụ là bồ đề, không cấu là bồ đề, không trần là bồ đề, không ngã là bồ đề, không thể nắm bắt là bồ đề, không sắc là bồ đề, không hình là bồ đề, không đây là bồ đề, không kia là bồ đề, không buồn là bồ đề.
Không phiền là bồ đề, không chìm đắm là bồ đề, không nhiễm là bồ đề, không thiên lệch là bồ đề, không dối trá là bồ đề, không nhơ là bồ đề, vượt qua tất cả căn là bồ đề, trừ tất cả nhớ nghĩ là bồ đề, vượt qua tất cả các việc làm hữu vi là bồ đề, không có sự tận cùng là bồ đề, khó biết là bồ đề, sâu xa là bồ đề, không chữ là bồ đề.
Không tướng là bồ đề, vắng lặng là bồ đề, thanh tịnh là bồ đề, vô thượng là bồ đề, không thí dụ là bồ đề, không mong cầu là bồ đề, không đoạn là bồ đề, không hoại là bồ đề, không phá là bồ đề, không suy nghĩ là bồ đề, không vật là bồ đề, vô vi là bồ đề, không kiến là bồ đề, không hại là bồ đề, vô minh là bồ đề, không chuyển đổi là bồ đề, thường trụ là bồ đề, hư không là bồ đề, vô đẳng đẳng là bồ đề, không thể nói là bồ đề.
Này Lăng Già Vương! Người nào muốn cầu bồ đề, đó là nếu không cầu pháp thì là cầu bồ đề.
Vì sao?
Lăng Già Vương! Nếu không có sự dính mắc, thì mới có thể chứng đắc được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Lại không có ngã tướng, chúng sinh tướng, mạng tướng, nhân tướng, súc dưỡng tướng, chúng số tướng, tác tướng, thọ tướng, tri tướng, kiến tướng thì mới có thể chứng đắc được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Nếu không đạt được tướng thế đế, không dính mắc vào pháp, không dính mắc vào ấm giới, cho đến không dính mắc vào Chư Phật và Bồ Tát thì mới có thể chứng đắc được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Vì sao?
Lăng Già Vương! Không có cái gì để dính mắc tức gọi là bồ đề. Nếu như không dính mắc vào vật, không dính mắc vào đoạn, không dính mắc vào thường thì vào đời vị lai, sẽ chứng thành quả vị bồ đề.
Vì sao như vậy?
Lăng Già Vương! Bởi vì tất cả các pháp sẽ bị hoại diệt ở vào sau cuối thời này.
Khi ấy, Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na bạch: Bạch Thế Tôn! Thế nào là biết tất cả pháp thế đế?
Phật đáp: Này Lăng Già Vương! Biết tất cả pháp thế đế là như huyễn, như hóa, như mộng, như đóm lửa, như bóng trăng trong nước, như thành Càn Thát Bà. Tất cả pháp thế đế nên biết như vậy, nên hiểu như vậy, nên quán như vậy.
Bấy giờ, Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na liền đạt được Bồ Tát Tam Muội Vô đẳng đẳng pháp quang minh trí tướng. Đạt được Đà La Ni Nhất thiết xảo âm.
Đạt được vô lượng, vô biên những Tam Muội, Đà La Ni như vậy rồi, Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na liền bạch: Bạch Thế Tôn! Nay con đã đạt được Tam Muội, Đà La Ni, đã hiểu rõ được tất cả pháp thế đế rồi.
Phật nói: Này Lăng Già Vương! Thế nào là hiểu biết?
Tỳ Tỳ Sa Na đáp: Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp thế đế đều là như mộng huyễn, như tiếng vang, như sơn thủy trong tranh, như bóng trăng trong nước, như tiếng gió thổi, như hoa đốm giữa hư không, như mây bay mùa thu, như ánh sáng phát ra của hạt châu, như ngọn lửa của cây đèn, như hạt sương trên hoa, như thành Càn Thát Bà, như bọt trên nước, như cầu vồng, như đốm lửa.
Bạch Thế Tôn! Con đã biết các pháp thế đế hiện đều là vô thường.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ trên đảnh, phóng ra trăm ngàn ức nado tha các loại ánh sáng, màu sắc đẹp đẽ, như xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, vàng trong suốt…, chiếu khắp vô lượng, vô biên A tăng kỳ các Cõi Phật.
Khi đã chiếu khắp rồi, những ánh sáng ấy, được thu trở lại vào trên đảnh.
Khi ấy, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, liền từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, gối phải chạm đất, chắp tay hướng về Phật, đọc kệ thưa hỏi:
Diệu Đức Phật, chẳng phải không nhân
Phóng ra luồng ánh sáng thanh tịnh
Nay ai khởi phát ý tinh diệu
Mà phóng hào quang, xin Phật nói.
Phật bảo Mục Kiền Liên rằng: Ngươi hãy nhìn Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na này, trước mặt ta ông chắp tay ngay thẳng, đem vô số vật dụng cúng dường ta, cùng chúng Thanh Văn, chư Bồ Tát, rồi nhân công đức này phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Mục Kiền Liên đáp: Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.
Phật nói: Mục Kiền Liên! Kể từ ta trở đi, cho đến trăm ngàn ức na dotha Chư Phật, Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na, đều có lòng muốn cúng dường hầu hạ. Sau khi trải qua như vậy rồi, công đức bản lực của ông ta sẽ đầy đủ. Khi ấy, có Thế Giới tên là Liên hoa thành.
Thế Giới ấy, có Thế Tôn hiệu là Liên Hoa Công Đức Tướng Chấn Thanh Oai Vương Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Lúc này, vị Thế Tôn đó đang tu hành thuyết pháp. Thọ mạng của Đức Phật Như Lai ấy là vô lượng, Thế Giới thanh tịnh.
Tỳ Tỳ Sa Na Lăng Già hóa sinh vào Thế Giới ấy. Sau khi hóa sinh vào Thế Giới đó rồi, liền đắc địa Hoan hỷ của Bồ Tát. Cứ như vậy cho đến được mười địa của Bồ Tát.
Trải qua vô lượng kiếp số, sau đó, sinh vào cõi Ta Bà này sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Diệu Chấn Thanh Kim Oai Thiện Tịnh Quang Minh Hiện Công Đức Bảo Cái Trang Nghiêm Đảnh Tướng Tỳ Lô Giá Na Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Và cuối cùng, sinh vào Thế Giới kia, có tên là Điện bảo quan.
Nơi ấy không có gò, hố, lồi lõm, ven núi, sườn núi, đất đá, phẩn uế, không có người nữ và ác đạo. Cõi Phật ấy thanh tịnh hơn cả Cõi Phật Như Lai A Di Đà hiện tại kia. Các chúng Bồ Tát đông đúc. Kiếp tên là Thiện quán minh. Phật Như Lai ấy, thọ mạng vô lượng.
Này Mục Kiền Liên! Thế rồi, Đức Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng, Chánh Giác mỉm cười.
Bấy giờ, do pháp này mà Vua Tỳ Tỳ Sa Na được thọ ký thành Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ông ta rất vui mừng, liền biến thân khắp nơi, bay lên không trung, cao đến bảy cây Đa La.
Từ giữa không trung, ông nói bài kệ:
Tất cả pháp là không, như mộng
Thanh tịnh, chẳng có giống hư không
Ngã và vô ngã đều không có
Ta biết như hóa, như tia điện.
Chúng sinh trong đó tự sinh diệt
Mong cầu một pháp không thể được
Suốt đầu đến cuối chẳng có gì
Nuôi dưỡng chúng sinh cũng như vậy.
Chúng sinh tùy nghiệp mắc quả báo
Xoay vần trong ấy không thể dừng
Nếu hành theo hạnh Bồ Tát này
Sẽ biết các pháp, thể đều không.
Sau khi nói kệ rồi, Vua Lăng Già Tỳ Tỳ Sa Na nương oai thần Phật từ không trung bước xuống, nhiễu Phật ba vòng lui ngồi một bên.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội - Phần Ba Mươi Chín
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Thọ Nhận
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Dhananjani
Phật Thuyết Kinh Nghĩa Túc - Kinh Vua Duy Lâu Lặc
Phật Thuyết Kinh Bột Sao - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Ba Mươi - Phẩm An Lạc