Phật Thuyết Kinh đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật đa - Phẩm Mười - Phẩm Bát Nhã Ba La Mật đa - Tập Bốn
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA LÝ THÚ LỤC BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư
Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường
PHẨM MƯỜI
PHẨM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
TẬP BỐN
Thân pháp tánh Chư Phật
Trí bản giác tự nhiên
Chính là thắng nghĩa đế
Chỉ Phật mới chứng tri.
Thể tự tánh vô sinh
Mâu ni vốn tịch tĩnh
Lưu chuyển trong ba cõi
Chỗ quy y rốt ráo.
Pháp không tướng đến, đi
Ba đời luôn tịch tĩnh
Trụ trong chân tam muội
Thấy thân pháp giới kia
Thanh tịnh không thể bàn
Đủ hằng sa công đức
Đây là cõi vô lậu
Chỗ nương tựa Chư Phật.
Chư Phật đủ ba thân
Thể, tướng, dụng bình đẳng
Tánh sâu xa rộng lớn
Thắng nghĩa không sai khác.
Vô lậu không biến đổi
Xa lìa tất cả tướng
Phiền não và sở tri
Bản tánh luôn thanh tịnh.
Không cấu, không nhiễm trước
Là thầy chân điều ngự
Tánh tịnh là Niết Bàn
Cũng là Pháp Thân Phật.
Thể đủ hằng sa đức
Vô cấu không nghĩ bàn
Luôn viên mãn sáu độ
Đây là nhất thiết trí.
Rộng lớn không giới hạn
Không còn các tư tưởng
Đoạn tập, chứng Bồ Đề
Đủ hằng sa công đức.
Với các pháp tự tại
Hiện đủ các sắc tượng
Quả đại bi thanh tịnh
Làm lợi ích chúng sinh.
Vô lậu không phân biệt
Nguyện lực đều viên mãn
Giống như châu ma ni
Hiện theo các màu sắc.
Giống như người thợ vẽ
Vẽ đủ các hình tượng
Hiện ra các cảnh giới
Đều do tâm thức biến.
Chúng sinh nhiều tánh dục
Như Lai đều biết rõ
Pháp thân luôn bất động
Nguyện lực hiện theo duyên
Thị hiện Trời Đâu Suất
Thần thông cỡi voi trắng
Sinh ra ở cung Vua
Xuất gia tu khổ hạnh
Đi đến gốc Bồ Đề
Chiến thắng các quân ma
Thành Phật chuyển pháp luân
Hoặc hiện tướng Niết Bàn.
Thị hiện có sinh diệt
Chân thân không lay động
Độn căn thích pháp nhỏ
Phương tiện nói Niết Bàn.
Trong pháp giới chân như
Không có tướng Niết Bàn
đại bi thích làm lợi
Dẫn đường cho chúng sinh.
Giống như người chủ buôn
Dẫn dụ các người ngu
Tâm Bồ Tát rộng lớn
Khiến chúng nhập Niết Bàn.
Nghe Đức Phật nói xong, Vi Mạt Để thân tâm vui mừng khôn xiết, liền rời chỗ ngồi, sửa y phục, quỳ gối chắp tay cung kính nói kệ khen ngợi Đức Phật:
Rơi vào sông sinh tử
Bị tà kiến trói buộc
Ca tỳ vi dã bà
Tiên Ca na ngoại đạo.
Phàm phu bị hôn mê
Do đó sinh tà kiến
Mười Lực Đấng Thiện Thệ
Tuệ Phật chiếu sáng rỡ.
Hoặc nghe Na La Diên
Trời Tự tại… chỉ dạy
Càng tăng trưởng tham dục
Làm tâm phát điên cuồng.
Chánh kiến phá tối tăm
Chính lời Như Lai dạy
Con nay lắng lòng nghe
Quy Y Bậc Đại Thánh.
Đại Phạm có bốn mặt
Bốn tay đầy hoa sen
Diễn nói bốn Vệ Đà
Làm tăng trưởng tà kiến.
Chỉ có Phật Thế Tôn
Đại Thánh Mặt Trời trí
Phá nghi ngờ cho con
Chỗ quy y chân chánh.
Khen ngợi Đức Phật xong,
Vi Mạt Để bạch Phật: Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Hôm nay con được hoàn toàn lợi ích là nhờ ánh sáng trí tuệ chân chánh của Ngài làm cho tâm nghi tà kiến của con đều được tiêu trừ. Con nay xin quy y Đại Thánh Thế Tôn. Thưa Thế Tôn, sở dĩ con tên Vi Mạt Để vì con cầu đạo phi pháp nên tâm luôn nghi ngờ.
Nay ở trước Phật con được chánh pháp nhãn, diệt trừ tâm nghi hoặc nên nay con tên là Tô Mạt Để. Xin Ngài cho con làm đệ tử quy y Phật, Pháp, Tăng để tu hành Đại Thừa, nguyện không bao giờ thoái lui, đạt được lợi ích tốt đẹp, con sẽ đem công đức này hồi hướng cho hữu tình đều thành Phật đạo.
Khi Đức Thế Tôn nói pháp cho Vi Mạt Để, trong hội có vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, sáu mươi hai na do tha Đại Bồ Tát chứng vô sinh pháp nhẫn.
Đức Phật dạy:
Này Từ Thị! Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tu tập tám pháp:
1. Thiện xảo về uẩn.
2. Thiện xảo về xứ.
3. Thiện xảo về giới.
4. Thiện xảo về đế.
5. Thiện xảo về duyên khởi.
6. Thiện xảo về ba đời.
7. Thiện xảo về tất cả thừa.
8. Thiện xảo về tất cả pháp.
Thế nào là thiện xảo về uẩn?
Nghĩa là quán sắc uẩn giống như bọt trên nước, người ngu thấy vậy cho đó là tấm thảm trắng, liền xuống nước để lấy thì bọt trên nước tan mất, không thể nào nắm bắt được. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh sắc là không, giống như bọt trên nước, vì vậy nên gọi là chánh tri kiến.
Quán thọ uẩn như bong bóng trên nước, vừa nổi lên thì mất ngay, sinh diệt trong từng sát na, không đứng yên. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh của thọ là không, giống như bong bóng trên nước, do đó gọi là chánh tri kiến.
Quán tưởng uẩn như quáng nắng. Ví như Trời nóng bức, có người khát nước, từ xa thấy quáng nắng, nói đó là nước và liền chạy đến tìm, nhưng đến gần thì không có. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh của tưởng là không, do đó gọi là chánh tri kiến.
Quán hành uẩn giống như cây chuối, bên trong không có lõi. Nếu lột thân nó ra mãi thì cuối cùng không còn gì cả. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của hành là không, do đó gọi là chánh tri kiến.
Quán thức uẩn như huyễn hóa. Như thầy ảo thuật giả làm vàng bạc, trân bảo, trân châu, anh lạc nhưng tìm thật thể của nó thì hoàn toàn không thể có. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của thức là không, giống như huyễn hóa, do đó gọi là chánh tri kiến.
Quán như vậy rồi, phát tâm đại bi cứu vớt tất cả hữu tình. Quán sát như vậy gọi là thiện xảo về uẩn.
Lại quán năm uẩn như huyễn hóa. Tất cả đều do tâm vọng tưởng điên đảo sinh ra, không có ngã, không có người, không có chúng sinh, không có thọ mạng.
Chẳng phải tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, không có người tạo tác, không có người nhận. Với phương tiện thiện xảo hiểu rõ tánh của uẩn là không, giống như mộng tưởng, hoàn toàn không thể đắc. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát quán uẩn như âm thanh vọng lại, không có ta, không có người, cho đến không có người tạo tác, không có người nhận. Như vậy, tánh uẩn giống như âm thanh vọng lại trong hang trống. Nó thuộc vào các nhân duyên, nếu như thật liễu tri thì đều không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát quán uẩn như ảnh, nó theo nghiệp duyên hiện, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Như vậy, hiểu rõ tánh của uẩn như ảnh, không thể đắc, không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát quán uẩn như bóng trong gương, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Hình bóng trong gương không phải ở trong, không phải ở ngoài. Hiểu rõ nó không thể đắc, không hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát quán uẩn nhờ duyên mà có nên nó như huyễn hóa, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Dùng trí thiện xảo như thật liễu tri, thấy không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát quán uẩn là tướng biến hoại, là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, tánh vốn không tịch, không hư hoại, không phải không hư hoại. Như thật liễu tri nên gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.
Thế nào gọi là thiện xảo về xứ?
Nghĩa là pháp nội xứ: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không.
Quán pháp ngoại xứ: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không. Dùng chánh trí tuệ quán đệ nhất nghĩa thấy không có trong, không có ngoài nên gọi là chánh tri kiến. Đó goi là trí thiện xảo về xứ.
Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là hiểu rõ các xứ: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không, cũng không có tướng thấy, nghe, hay biết. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp xứ.
Lại có trí pháp xứ, nghĩa là biết tự tánh của các xứ: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là không tịch, không có tướng cảnh giới của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp xứ.
Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là pháp tánh của các xứ: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là không tịch, không có ta, không có cái của ta. Pháp tánh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều không, không có ta, không có cái của ta, không tương ưng, không phải không tương ưng, chẳng phải pháp lành, chẳng phải pháp ác, không tăng không giảm, không có hai tướng, xưa nay vắng lặng. Đó gọi là trí thiện xảo về xứ của Đại Bồ Tát.
Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là nhãn xứ, sắc xứ xưa nay thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc. Nhãn xứ bền chắc, tịch nhiên thường trụ. Cũng vậy, nhĩ, thanh xứ. Tỷ, hương xứ. Thiệt, vị xứ. Thân, xúc xứ. Ý, pháp xứ tánh vốn thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc, cho đến ý căn kiên cố tịch nhiên, thường trụ không biến đổi. Đó gọi là trí thiện xảo về xứ của Đại Bồ Tát.
Sao gọi là thiện xảo về xứ?
Nghĩa là Thánh nhân xứ, chẳng phải phàm phu xứ có thể sinh ra Thánh Đạo, đó gọi là xứ. Phàm phu tà kiến sinh đường ác gọi là phi xứ. Đại Bồ Tát trụ trong tám Thánh Đạo phát tâm đại bi để đưa hữu tình nhập vào chánh định tụ. Đó gọi là trí thiện xảo về xứ.
Thế nào là trí thiện xảo về giới của Đại Bồ Tát?
Nghĩa là quán Nhãn Giới, Sắc Giới, Nhãn Thức Giới không có ta, không có của ta. Cũng chẳng phải Nhãn Giới, Sắc Giới, Nhãn Thức Giới theo duyên mà khởi. Cho đến ý giới, pháp giới không có ta, không có của ta, cho đến ý thức giới không có ta, cũng chẳng phải ý thức giới theo duyên mà khởi.
Như vậy, Bồ Tát dùng chánh trí tuệ quán đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của mười tám giới là không, không có ta, không có người, pháp giới bình đẳng, thanh tịnh bất động. Đó gọi là trí thiện xảo về giới của Đại Bồ Tát.
Lại có thiện xảo về giới, nghĩa là trí hiểu rõ pháp giới, biết rõ tánh của địa, thủy, hỏa, phong giới là không. Cứng, ướt, nóng, động… đều không thể đắc, đồng đẳng với tánh pháp chân tế. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp giới của Đại Bồ Tát.
Lại có trí thiện xảo về pháp giới, nghĩa là hiểu rõ tánh của nhãn giới cho đến ý giới là không. Tánh của sắc giới cho đến pháp giới là không. Tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới là không, không có tướng phân biệt, thấy nghe, hay biết. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp giới.
Thế nào là thiện xảo về đế?
Đế là bốn đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Nghĩa là quán năm uẩn này là khổ, hành khổ, hoại khổ, đây gọi là trí về khổ Thánh Đế. Biết rõ vô minh làm tăng trưởng năm uẩn, gọi là trí tập đế. Không sinh tham dục, diệt sạch các khổ gọi là trí Diệt Đế. Vì diệt này mà tu tám Thánh Đạo gọi là trí Đạo Đế. Đây gọi là trí thiện xảo về đế của Đại Bồ Tát.
Lại có trí thiện xảo về đế, nghĩa là biết khổ vốn không sinh gọi là trí Khổ Đế. Biết tập không khởi gọi là trí Tập Đế. Biết rõ xưa không sinh, nay không diệt gọi là trí Diệt Đế. Không có hai tướng, tu tập trung đạo gọi là trí Đạo Đế. Đó gọi là trí thiện xảo về đế.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Mười Năm - Phẩm Không Buộc, Không Mở
Phật Thuyết Kinh Hoằng đạo Quảng Hiển Tam Muội - Phẩm Ba - Phẩm ðạo Vô Tập
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Sáu - Phẩm đại - Kinh Ca Lâu ô đà Di
Phật Thuyết Kinh đại Tịnh Pháp Môn - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Ba - Phẩm Vô Thường - Phần Bốn