Phật Thuyết Kinh đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật đa - Phẩm Mười - Phẩm Bát Nhã Ba La Mật đa - Tập Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA LÝ THÚ LỤC BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư

Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường  

PHẨM MƯỜI

PHẨM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA  

TẬP BỐN  

Thân pháp tánh Chư Phật

Trí bản giác tự nhiên

Chính là thắng nghĩa đế

Chỉ Phật mới chứng tri.

Thể tự tánh vô sinh

Mâu ni vốn tịch tĩnh

Lưu chuyển trong ba cõi

Chỗ quy y rốt ráo.

Pháp không tướng đến, đi

Ba đời luôn tịch tĩnh

Trụ trong chân tam muội

Thấy thân pháp giới kia

Thanh tịnh không thể bàn

Đủ hằng sa công đức

Đây là cõi vô lậu

Chỗ nương tựa Chư Phật.

Chư Phật đủ ba thân

Thể, tướng, dụng bình đẳng

Tánh sâu xa rộng lớn

Thắng nghĩa không sai khác.

Vô lậu không biến đổi

Xa lìa tất cả tướng

Phiền não và sở tri

Bản tánh luôn thanh tịnh.

Không cấu, không nhiễm trước

Là thầy chân điều ngự

Tánh tịnh là Niết Bàn

Cũng là Pháp Thân Phật.

Thể đủ hằng sa đức

Vô cấu không nghĩ bàn

Luôn viên mãn sáu độ

Đây là nhất thiết trí.

Rộng lớn không giới hạn

Không còn các tư tưởng

Đoạn tập, chứng Bồ Đề

Đủ hằng sa công đức.

Với các pháp tự tại

Hiện đủ các sắc tượng

Quả đại bi thanh tịnh

Làm lợi ích chúng sinh.

Vô lậu không phân biệt

Nguyện lực đều viên mãn

Giống như châu ma ni

Hiện theo các màu sắc.

Giống như người thợ vẽ

Vẽ đủ các hình tượng

Hiện ra các cảnh giới

Đều do tâm thức biến.

Chúng sinh nhiều tánh dục

Như Lai đều biết rõ

Pháp thân luôn bất động

Nguyện lực hiện theo duyên

Thị hiện Trời Đâu Suất

Thần thông cỡi voi trắng

Sinh ra ở cung Vua

Xuất gia tu khổ hạnh

Đi đến gốc Bồ Đề

Chiến thắng các quân ma

Thành Phật chuyển pháp luân

Hoặc hiện tướng Niết Bàn.

Thị hiện có sinh diệt

Chân thân không lay động

Độn căn thích pháp nhỏ

Phương tiện nói Niết Bàn.

Trong pháp giới chân như

Không có tướng Niết Bàn

đại bi thích làm lợi

Dẫn đường cho chúng sinh.

Giống như người chủ buôn

Dẫn dụ các người ngu

Tâm Bồ Tát rộng lớn

Khiến chúng nhập Niết Bàn.

Nghe Đức Phật nói xong, Vi Mạt Để thân tâm vui mừng khôn xiết, liền rời chỗ ngồi, sửa y phục, quỳ gối chắp tay cung kính nói kệ khen ngợi Đức Phật:

Rơi vào sông sinh tử

Bị tà kiến trói buộc

Ca tỳ vi dã bà

Tiên Ca na ngoại đạo.

Phàm phu bị hôn mê

Do đó sinh tà kiến

Mười Lực Đấng Thiện Thệ

Tuệ Phật chiếu sáng rỡ.

Hoặc nghe Na La Diên

Trời Tự tại… chỉ dạy

Càng tăng trưởng tham dục

Làm tâm phát điên cuồng.

Chánh kiến phá tối tăm

Chính lời Như Lai dạy

Con nay lắng lòng nghe

Quy Y Bậc Đại Thánh.

Đại Phạm có bốn mặt

Bốn tay đầy hoa sen

Diễn nói bốn Vệ Đà

Làm tăng trưởng tà kiến.

Chỉ có Phật Thế Tôn

Đại Thánh Mặt Trời trí

Phá nghi ngờ cho con

Chỗ quy y chân chánh.

Khen ngợi Đức Phật xong,

Vi Mạt Để bạch Phật: Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Hôm nay con được hoàn toàn lợi ích là nhờ ánh sáng trí tuệ chân chánh của Ngài làm cho tâm nghi tà kiến của con đều được tiêu trừ. Con nay xin quy y Đại Thánh Thế Tôn. Thưa Thế Tôn, sở dĩ con tên Vi Mạt Để vì con cầu đạo phi pháp nên tâm luôn nghi ngờ.

Nay ở trước Phật con được chánh pháp nhãn, diệt trừ tâm nghi hoặc nên nay con tên là Tô Mạt Để. Xin Ngài cho con làm đệ tử quy y Phật, Pháp, Tăng để tu hành Đại Thừa, nguyện không bao giờ thoái lui, đạt được lợi ích tốt đẹp, con sẽ đem công đức này hồi hướng cho hữu tình đều thành Phật đạo.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp cho Vi Mạt Để, trong hội có vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, sáu mươi hai na do tha Đại Bồ Tát chứng vô sinh pháp nhẫn.

Đức Phật dạy:

Này Từ Thị! Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tu tập tám pháp:

1. Thiện xảo về uẩn.

2. Thiện xảo về xứ.

3. Thiện xảo về giới.

4. Thiện xảo về đế.

5. Thiện xảo về duyên khởi.

6. Thiện xảo về ba đời.

7. Thiện xảo về tất cả thừa.

8. Thiện xảo về tất cả pháp.

Thế nào là thiện xảo về uẩn?

Nghĩa là quán sắc uẩn giống như bọt trên nước, người ngu thấy vậy cho đó là tấm thảm trắng, liền xuống nước để lấy thì bọt trên nước tan mất, không thể nào nắm bắt được. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh sắc là không, giống như bọt trên nước, vì vậy nên gọi là chánh tri kiến.

Quán thọ uẩn như bong bóng trên nước, vừa nổi lên thì mất ngay, sinh diệt trong từng sát na, không đứng yên. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh của thọ là không, giống như bong bóng trên nước, do đó gọi là chánh tri kiến.

Quán tưởng uẩn như quáng nắng. Ví như Trời nóng bức, có người khát nước, từ xa thấy quáng nắng, nói đó là nước và liền chạy đến tìm, nhưng đến gần thì không có. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh của tưởng là không, do đó gọi là chánh tri kiến.

Quán hành uẩn giống như cây chuối, bên trong không có lõi. Nếu lột thân nó ra mãi thì cuối cùng không còn gì cả. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của hành là không, do đó gọi là chánh tri kiến.

Quán thức uẩn như huyễn hóa. Như thầy ảo thuật giả làm vàng bạc, trân bảo, trân châu, anh lạc nhưng tìm thật thể của nó thì hoàn toàn không thể có. Đại Bồ Tát dùng chánh trí tuệ thấy đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của thức là không, giống như huyễn hóa, do đó gọi là chánh tri kiến.

Quán như vậy rồi, phát tâm đại bi cứu vớt tất cả hữu tình. Quán sát như vậy gọi là thiện xảo về uẩn.

Lại quán năm uẩn như huyễn hóa. Tất cả đều do tâm vọng tưởng điên đảo sinh ra, không có ngã, không có người, không có chúng sinh, không có thọ mạng.

Chẳng phải tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, không có người tạo tác, không có người nhận. Với phương tiện thiện xảo hiểu rõ tánh của uẩn là không, giống như mộng tưởng, hoàn toàn không thể đắc. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.

Đại Bồ Tát quán uẩn như âm thanh vọng lại, không có ta, không có người, cho đến không có người tạo tác, không có người nhận. Như vậy, tánh uẩn giống như âm thanh vọng lại trong hang trống. Nó thuộc vào các nhân duyên, nếu như thật liễu tri thì đều không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.

Đại Bồ Tát quán uẩn như ảnh, nó theo nghiệp duyên hiện, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Như vậy, hiểu rõ tánh của uẩn như ảnh, không thể đắc, không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.

Đại Bồ Tát quán uẩn như bóng trong gương, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Hình bóng trong gương không phải ở trong, không phải ở ngoài. Hiểu rõ nó không thể đắc, không hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.

Đại Bồ Tát quán uẩn nhờ duyên mà có nên nó như huyễn hóa, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Dùng trí thiện xảo như thật liễu tri, thấy không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.

Đại Bồ Tát quán uẩn là tướng biến hoại, là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, tánh vốn không tịch, không hư hoại, không phải không hư hoại. Như thật liễu tri nên gọi là trí thiện xảo về uẩn của Đại Bồ Tát.

Thế nào gọi là thiện xảo về xứ?

Nghĩa là pháp nội xứ: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không.

Quán pháp ngoại xứ: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không. Dùng chánh trí tuệ quán đệ nhất nghĩa thấy không có trong, không có ngoài nên gọi là chánh tri kiến. Đó goi là trí thiện xảo về xứ.

Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là hiểu rõ các xứ: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không, cũng không có tướng thấy, nghe, hay biết. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp xứ.

Lại có trí pháp xứ, nghĩa là biết tự tánh của các xứ: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là không tịch, không có tướng cảnh giới của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp xứ.

Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là pháp tánh của các xứ: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là không tịch, không có ta, không có cái của ta. Pháp tánh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều không, không có ta, không có cái của ta, không tương ưng, không phải không tương ưng, chẳng phải pháp lành, chẳng phải pháp ác, không tăng không giảm, không có hai tướng, xưa nay vắng lặng. Đó gọi là trí thiện xảo về xứ của Đại Bồ Tát.

Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là nhãn xứ, sắc xứ xưa nay thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc. Nhãn xứ bền chắc, tịch nhiên thường trụ. Cũng vậy, nhĩ, thanh xứ. Tỷ, hương xứ. Thiệt, vị xứ. Thân, xúc xứ. Ý, pháp xứ tánh vốn thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc, cho đến ý căn kiên cố tịch nhiên, thường trụ không biến đổi. Đó gọi là trí thiện xảo về xứ của Đại Bồ Tát.

Sao gọi là thiện xảo về xứ?

Nghĩa là Thánh nhân xứ, chẳng phải phàm phu xứ có thể sinh ra Thánh Đạo, đó gọi là xứ. Phàm phu tà kiến sinh đường ác gọi là phi xứ. Đại Bồ Tát trụ trong tám Thánh Đạo phát tâm đại bi để đưa hữu tình nhập vào chánh định tụ. Đó gọi là trí thiện xảo về xứ.

Thế nào là trí thiện xảo về giới của Đại Bồ Tát?

Nghĩa là quán Nhãn Giới, Sắc Giới, Nhãn Thức Giới không có ta, không có của ta. Cũng chẳng phải Nhãn Giới, Sắc Giới, Nhãn Thức Giới theo duyên mà khởi. Cho đến ý giới, pháp giới không có ta, không có của ta, cho đến ý thức giới không có ta, cũng chẳng phải ý thức giới theo duyên mà khởi.

Như vậy, Bồ Tát dùng chánh trí tuệ quán đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của mười tám giới là không, không có ta, không có người, pháp giới bình đẳng, thanh tịnh bất động. Đó gọi là trí thiện xảo về giới của Đại Bồ Tát.

Lại có thiện xảo về giới, nghĩa là trí hiểu rõ pháp giới, biết rõ tánh của địa, thủy, hỏa, phong giới là không. Cứng, ướt, nóng, động… đều không thể đắc, đồng đẳng với tánh pháp chân tế. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp giới của Đại Bồ Tát.

Lại có trí thiện xảo về pháp giới, nghĩa là hiểu rõ tánh của nhãn giới cho đến ý giới là không. Tánh của sắc giới cho đến pháp giới là không. Tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới là không, không có tướng phân biệt, thấy nghe, hay biết. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp giới.

Thế nào là thiện xảo về đế?

Đế là bốn đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Nghĩa là quán năm uẩn này là khổ, hành khổ, hoại khổ, đây gọi là trí về khổ Thánh Đế. Biết rõ vô minh làm tăng trưởng năm uẩn, gọi là trí tập đế. Không sinh tham dục, diệt sạch các khổ gọi là trí Diệt Đế. Vì diệt này mà tu tám Thánh Đạo gọi là trí Đạo Đế. Đây gọi là trí thiện xảo về đế của Đại Bồ Tát.

Lại có trí thiện xảo về đế, nghĩa là biết khổ vốn không sinh gọi là trí Khổ Đế. Biết tập không khởi gọi là trí Tập Đế. Biết rõ xưa không sinh, nay không diệt gọi là trí Diệt Đế. Không có hai tướng, tu tập trung đạo gọi là trí Đạo Đế. Đó gọi là trí thiện xảo về đế.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần