Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Ba - Phẩm Vô Thường - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẨM BA
PHẨM VÔ THƯỜNG
PHẦN BỐN
Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:
Vượt ngoài căn suy lường
Không phải quả hay nhân
Tướng hay là sở tướng
Tất cả đều xa lìa
Uẩn, duyên, cùng chính giác
Một, khác, không ai thấy
Đã không có ai thấy
Sao còn sinh phân biệt
Không phải tác, sở tác
Không nhân, không không nhân
Không uẩn, không lìa uẩn
Cũng không lìa các vật
Không phải có pháp thể
Như phân biệt kia thấy
Lại không phải là không
Các pháp tính như vậy
Đối có thành ra không
Đối với không nên có
Không đã không thể giữ
Có cũng không nên nói
Không rõ ngã vô ngã
Chỉ chấp nơi danh từ
Kẻ kia chìm nhị biên
Hoại mình, hoại thế gian
Nếu hay thấy pháp này
Liền lìa hết các lỗi
Đó gọi là chính quán
Không hủy báng Đạo Sư.
Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như trong Kinh Phật dạy Đức Như Lai không phải chịu sự sinh, diệt, và Thế Tôn lại dạy bất sinh bất diệt ấy cũng là một tên gọi khác để chỉ Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn chỉ dạy. Cái lẽ bất sinh bất diệt ấy tức là vô pháp nonentity, sao lại nói đấy là tên khác của Như Lai.
Như Thế Tôn dạy: Hết thảy pháp không sinh không diệt, nên biết đó tức là sa vào các kiến chấp hữu, vô.
Nếu pháp không sinh tức không thể giữ, không có một chút pháp nào cả thì ai là Như Lai?
Xin Thế Tôn giảng rõ.
Phật dạy: Hãy lắng nghe, ta sẽ nói.
Này Đại Huệ! Ta nói Như Lai không phải là vô pháp, lại không phải là thâu nhận nhiếp thủ các pháp bất sinh bất diệt, cũng không đối đãi nhân duyên để xuất hiện, cũng không phải là vô nghĩa.
Ta nói vô sinh tức là một tên khác cho pháp thân do ý sinh manomayadharmakàya của Như Lai. Hết thảy ngoại đạo Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát Thất Địa không rõ nghĩa ấy.
Đại Huệ! Thí như Đế Thích sakra, đất, hư không, cho đến chân tay, tùy theo mỗi vật, mỗi thứ đều có nhiều tên. Không phải vì có nhiều tên mà thành ra có nhiều thể, hay thành vô thể.
Đại Huệ! Ta cũng như thế, ở nơi Thế Giới Ta Bà này, có ba A tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, những kẻ phàm ngu tuy nghe tuy nói mà không biết đấy là tên khác của Như Lai.
Trong số ấy có người hoặc nhận ta là Như Lai, có người cho ta là bậc Vô sư Svayambhù, hay đấng Đạo Sư Nàyaka, hay đấng Thắng đạo Vinàyaka, Phổ đạo Parinàyaka.
Hay Phật, hay Ngưu vương hay Phạm Vương Brahman, hay tùy hữu Visnu, hay tự tại Isvara, hay đấng thắng giả Pradhàna, hay đấng Ca Tỳ La Kapila, hay đấng chân thật biên Bhùtànta, đấng vô tận Ariskta, đấng đoan tướng Nemina?
Hoặc có kẻ cho ta như là thần gió, thần lửa, hay đấng Câu Tỳ La, hay mặt trăng, hay mặt trời, hay như vì Vua, hay như tiên nhân, hay như đấng thức ca suka hay như Nhân Đà La Indra, như sao, như sức mạnh lớn, như nước, như cái vô diệt, như cái không sinh.
Như tính không, như chân như Tathatà, như Đế satyatà, thật tính Bhùtatà, thật tế Shùtakoti, pháp Giới Dharmadhàtu, Niết Bàn, Thường Trụ, Bình đẳng, Vô nhị, Vô tướng, Tịch diệt, Cụ tướng, Nhân duyên, Phật tính, Giáo đạo, Giải thoát, Đạo lộ, Nhất thế trí, Đấng Tối thắng Jina, đấng Ý thành thân...
Hết thảy những tên như thế, đầy ba A tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, không Tăng không giảm. Trong Thế Giới này cùng các Thế Giới khác, có những kẻ biết ta như trăng trong nước không vào không ra, nhưng hạng phàm ngu tâm bị chìm đắm nơi nhị biên không thể hiểu thấu.
Mà cũng tôn trọng cúng dường thừa sự, không khéo giải danh tự cú nghĩa, chấp ngôn giáo, mê muội đối với lẽ chân thật, cho rằng vô sinh vô diệt tức là không thể tính, mà không biết đấy là một danh hiệu khác của Phật như Nhân Đà La, Đế Kiệt La v.v...
Vì tin nơi ngôn giáo, mê muội chân thật, ở hết thảy pháp đều y theo lời bhùta mà nắm ý nghĩa atrha, nên những kẻ phàm ngu kia nói: Nghĩa chính là lời, nghĩa và lời không khác.
Vì sao?
Vì nghĩa không có thể tính nên không thể khác với lời. Kẻ ấy không hiểu rõ tự tính của ngôn âm. Cho rằng ngôn tức là nghĩa, không có thể tính riêng biệt cho nghĩa.
Đại Huệ! Kẻ kia ngu si không biết rằng ngôn thuyết thì có sinh diệt, còn nghĩa thì không sinh diệt.
Đại Huệ! Hết thảy ngôn thuyết đều sa vào văn tự, còn nghĩa thì không sa vào, vì lìa có và không, không sinh, không thể tính.
Đại Huệ! Như Lai không nói pháp sa vào văn tự, vì hữu và vô của văn tự đều bất khả đắc.
Đại Huệ! Nếu có người nói những pháp sa vào văn tự, ấy là pháp hư dối.
Vì sao?
Vì tự tính của các pháp lìa văn tự.
Cho nên, này Đại Huệ! Trong Kinh ta nói: Ta cùng Chư Phật và Bồ Tát không nói một chữ không đáp một tiếng nào.
Vì sao?
Vì hết thảy pháp lìa văn tự. Nhưng không phải là ta không thuận theo nghĩa mà phân biệt nói.
Đại Huệ! Nếu không nói thì giáo pháp phải đứt đoạn, giáo pháp đoạn đứt thì không có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Chư Phật.
Nếu tất cả đều không thì ai nói pháp và nói cho ai?
Bởi thế, Đại Huệ này, Bồ Tát đại hữu tình không nên chấp trước nơi văn tự, mà phải tùy nghi thuyết pháp. Ta cùng Chư Phật đều tùy những thứ phiền não, ưa muốn và hiểu biết không đồng của chúng sinh mà khai diễn cho chúng, khiến chúng biết các pháp đều do tâm hiện, không có cảnh ngoài, xả bỏ hai phân biệt, chuyển hóa tâm, ý thức.
Chứ không phải vì chúng mà nói pháp do Thánh trí tự chứng Su. Có thêm một đoạn.
Đại Huệ! Bồ Tát đại hữu tình nên theo nghĩa, chớ theo văn tự, theo văn tự thì đọa vào ác kiến. Chấp trước chủ trương của mình mà khởi ngôn thuyết, không thể hiểu rõ các pháp tướng văn từ chương cú, đã tự hại còn hại người, không thể khiến tâm người giải ngộ.
Nếu khéo biết rõ hết thảy pháp tướng, văn từ cú nghĩa đều thông, thì có thể khiến tự mình thọ cái vui vô tướng, mà còn giúp người an trú đại thừa.
Nếu khiến được người an trú đại thừa thì liền được hết thảy Chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác cùng Chư Bồ Tát thâu nhận.
Nếu được Chư Phật, Thanh Văn... thâu nhận thì có thể thâu nhận hết thảy chúng sinh, có thể thâu nhận hết thảy chính pháp.
Nếu nhiếp thọ được hết thảy chính pháp thì không làm đứt đoạn hạt giống Phật Budhavamsa. Nếu không đoạn giống Phật thì được chỗ thù thắng tốt đẹp.
Đại Huệ! Bồ Tát đại hữu tình sinh chỗ tốt đẹp thù thắng, muốn chúng sinh an trú đại thừa, dùng mười lực tự tại hiện các hình tướng, tùy căn cơ của họ mà nói pháp chân thật. Chân thật pháp ấy là không hai, không phân biệt, không đến không đi, hết thảy hí luận đều bặt dứt.
Cho nên, này Đại Huệ! Thiện nam, thiện nữ không nên y lời mà chấp nghĩa.
Vì sao?
Vì pháp chân thật lìa văn tự.
Đại Huệ! Thí dụ có người dùng ngón tay chỉ sự vật, đứa bé con chỉ nhìn ngón tay không nhìn vật. Kẻ phàm phu ngu si cũng vậy, theo nơi ngón tay ngôn thuyết mà sinh chấp trước, thậm chí đến chết cũng không xả bỏ được ngón tay văn tự để nắm đệ nhất nghĩa.
Đại Huệ! Thí như con nít mới sinh đáng phải ăn đồ chín. Có người không biết rành cách nấu chín, mà cho nó ăn đồ sống tất phát cuồng loạn.
Bất sinh bất diệt cũng thế, không tu phương tiện tất là không tốt. Vì thế hãy nên khéo tu phương tiện, chớ theo ngôn thuyết như nhìn đầu ngón tay.
Đại Huệ! Nghĩa chân thật vốn vi diệu tịch tịnh, ấy là nhân của Niết Bàn. Ngôn thuyết thì cùng với vọng tưởng mà khiến người trôi lăn trong sinh tử.
Đại Huệ! Thật nghĩa là do nghe nhiều mà được, nghe nhiều là rành nghĩa không phải rành lời. Người rành nghĩa không theo ác kiến ngoại đạo, tự mình không theo, cũng khiến người không theo. Ấy gọi là nghe nhiều nơi nghĩa, kẻ muốn cầu nghĩa nên gần gũi hạng người này và xa lìa những kẻ chấp trước văn tự.
Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình nương thần lực Phật mà bạch: Bạch Thế Tôn! Như Lai diễn nói bất sinh bất diệt không có gì là kỳ lạ đặc biệt.
Vì sao?
Hết thảy ngoại đạo cũng nói đấng tạo tác tác giả không sinh không diệt.
Thế Tôn cũng nói hư không Niết Bàn cùng phi sát diệt Amatisamkhyànirodha là bất sinh bất diệt. Ngoại đạo nói đấng tác giả làm nhân duyên sinh ra thế gian, Thế Tôn cũng nói vô minh ái nghiệp sinh ra các thế gian.
Cả hai thuyết đều nói nhân duyên sinh, chỉ khác trên danh từ. Vì nhân duyên của các vật bên ngoài cũng thế. Cho nên thuyết của Phật và của ngoại đạo không có sai biệt.
Ngoại đạo nói: Vi trần, thắng diệu pradhàna Tự tại Isvara, Sinh chủ Prajàpati v.v... chín thứ Navadravya như vậy là bất sinh bất diệt. Thế Tôn cũng nói hết thảy pháp không sinh không diệt. Có hay không đều bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Các đại chủng không hoại, vì tự tính của chúng không sinh không diệt, lan khắp các cõi mà vẫn không mất tự tính.
Bạch Thế Tôn! Tuy phân biệt thì có biến đổi chút ít, song hết thảy những điều Như Lai dạy không có gì là ngoại đạo không đã nói rồi. Cho nên Phật pháp cũng giống như ngoại đạo. Nếu không giống thì xin Phật diễn bày cho con thuyết của Phật hơn ngoại đạo ở chỗ nào.
Nếu không có sai biệt thì ngoại đạo tức là Phật. Vì họ cũng nói bất sinh bất diệt vậy. Thế Tôn thường dạy trong một Thế Giới không có nhiều Phật, nhưng theo đây thì có.
Phật dạy: Đại Huệ! Chỗ ta nói không sinh không diệt không đồng với bất sinh bất diệt của ngoại đạo, cũng không đồng với luận của họ về sinh và vô thường.
Vì sao?
Thuyết của ngoại đạo là có thật tính không sinh không biến đổi. Ta không sa vào hữu, vô như vậy. pháp ta nói không hữu không vô, lìa sinh lìa diệt.
Sao là phi vô?
Vì như thấy các hình sắc huyễn mộng.
Sao gọi là phi hữu?
Vì tự tính của sắc tướng không phải có, nhưng nó đồng thời vừa được thấy vừa không được thấy, vừa được nắm giữ vừa không được nắm giữ. Cho nên ta nói hết thảy pháp không phải có không phải không.
Nếu biết rõ tất cả chỉ do tự tâm thấy, thì liền an trú tự tính, không sinh phân biệt, các việc tạo tác ở thế gian sẽ đều chấm dứt. Phân biệt ấy là việc của phàm phu, không phải hiền Thánh.
Đại Huệ! Vọng tâm phân biệt cảnh giới không thật, như người huyễn cùng người huyễn buôn bán ra vào trong thành Càn Thát Bà, tâm mê phân biệt cho là có thật. Những chuyện kẻ phàm ngu thấy như sinh bất sinh, hữu vi vô vi cũng thế, như người huyễn sinh, người huyễn diệt. Người huyễn thật ra không sinh không diệt. Các pháp cũng vậy, lìa sinh diệt.
Này Đại Huệ! Kẻ phàm phu hư vọng khởi quan niệm sinh diệt, Thánh Nhân không vậy. Nói hư vọng nghĩa là không như pháp tính, khởi kiến chấp điên đảo. Điên đảo kiến là chấp pháp có thể tính, không thấy được chỗ vắng lặng. Vì không thấy vắng lặng nên không thể xa lìa hư vọng phân biệt.
Cho nên, này Đại Huệ! Cái thấy vô tướng là thù thắng, không phải cái thấy có tướng. Tướng là nhân của sinh, nếu không có tướng tất không có phân biệt. Không sinh không diệt ấy là Niết Bàn.
Đại Huệ! Nói Niết Bàn ấy nghĩa là thấy chỗ như thật xa lìa các pháp tâm và tâm sở phân biệt, được Thánh trí nội chứng của Như Lai. Ta nói đấy là Niết Bàn tịch tịnh.
Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:
Để trừ chấp có sinh
Thành lập nghĩa không sinh
Ta nói luận vô nhân
Kẻ ngu không hiểu được
Hết thảy pháp không sinh
Cũng không là vô pháp
Như càn thành, huyễn mộng
Tuy có mà không nhân
Không, vô sinh, vô tính
Có gì mà ta nói?
Lìa các duyên hòa hợp
Kẻ trí không hay thấy
Vì thế nên ta nói
Không vô sinh vô tính
Mỗi mỗi duyên hòa hợp
Chỉ hiện chứ không có
Phân tích không hòa hợp
Không như ngoại đạo thấy
Như mộng và tóc rũ thùy phát
Huyễn sự cùng càn thành
Không nhân mà vọng thấy
Thế sự cũng như vậy
Chiết phục luận hữu nhân
Bày rõ lý vô sinh
Nghĩa vô sinh nếu còn
Pháp nhãn thường không diệt
Ta nói luận vô nhân
Ngoại đạo đều sợ hãi
Làm sao, và nhân đâu
Lại vì sao mà sinh
Hòa hiệp ở chỗ nào
Mà lập vô nhân luận?
Quán sát pháp hữu vi
Không nhân không vô nhân
Nên luận sinh diệt kia
Do đó mà bị phá
Vì vô nên không sinh
Hay vì đổi các duyên?
Hay có tên không nghĩa
Nguyện Phật vì con nói
Vô pháp không bất sinh
Cũng không phải chờ duyên
Không phải tên của vật
Cũng không tên, không nghĩa
Không thuộc của ngoại đạo
Thanh Văn cùng Duyên Giác
Cùng Bồ Tát Thập Trụ
Ấy là vô sinh tướng
Xa lìa các nhân duyên
Không có người năng tác
Chỉ do tâm kiến lập
Ta nói là vô sinh
Các pháp không nhân sinh
Không không cũng không có
Lìa năng sở, phân biệt
Ta nói là vô sinh
Ngoài tâm không có gì
Lại lìa nơi hai tính
Y tha và vọng kế
Paratantra, parikalpita
Như thế chuyển sở y
Đấy ta nói vô sinh
Ngoại vật có cùng không
Tâm không sở thủ gì
Tất cả kiến đều đoạn
Ta gọi là vô sinh
Cú nghĩa không, vô tính
Nghĩa nó đều như vậy
Không vì không nói không
Vô sinh nên nói không
Nhân duyên cùng tụ hội
Cho nên có sinh diệt
Nếu nhân duyên phân tán
Sinh diệt tất không có
Nếu lìa các nhân duyên
Thì tuyệt không có pháp
Tính một cùng tính khác
Do phàm ngu phân biệt
Vô hữu bất sinh pháp
Hữu, vô không sinh pháp
Câu, phi cũng như vậy
Chỉ trừ khi duyên hợp
Trong ấy thấy khởi diệt
Theo tục giả ngôn thuyết
Nói vòng móc nhân duyên
Nếu lìa vòng nhân duyên
Nghĩa sinh samkalà bất khả đắc
Ta nói chỉ vòng câu
Không sinh nói bất sinh
Lìa các lỗi ngoại đạo
Phàm ngu không thể hiểu
Lìa vòng xích nhân duyên
Mà riêng có pháp sinh
Ấy là luận vô nhân
Phá hoại nghĩa câu tỏa
Như đèn hay chiếu vật
Vòng xích nếu như thế
Đấy tức lìa vòng xích
Mà riêng có các pháp
Vô sinh tức vô tính
Thể tính như hư không
Lìa duyên sinh tìm pháp
Là kẻ ngu phân biệt
Lại có loại vô sinh
Do Bậc Thánh chứng được
Sinh kia không phải sinh
Ấy là vô sinh nhẫn
Nếu biết cả thế gian
Đều chỉ là vòng xích
Và không gì khác hơn
Kẻ ấy tâm được định.
Vô minh cùng ái nghiệp
Là kềm tỏa bên trong
Các đại, bùn, bánh xe
Là câu tỏa bên ngoài.
Nếu nói có pháp khác
Cũng do nhân duyên sinh
Ngoài nghĩa vòng xích này
Đây không phải giáo lý.
Sinh pháp nếu phi hữu
Ai nhận ra nhân duyên?
Vì các pháp sinh nhau
Nên gọi là nhân duyên
Tính cứng, ướt, ấm, động
Do phàm ngu phân biệt
Chỉ có duyên, không pháp
Nên nói vô tự tính
Như lương y trị bệnh
Nguyên tắc không sai khác
Nhưng vì bệnh không đồng
Liều thuốc có khác nhau
Ta vì các chúng sinh
Diệt trừ bệnh phiền não
Biết căn cơ mạnh yếu
Diễn nói các pháp môn
Phiền não không phải khác
Mà sinh ra các pháp
Chỉ có một đại thừa
Bát chính đạo trong mát.
Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình bạch Phật: Bạch Thế Tôn hết thảy ngoại đạo vọng nói vô thường. Thế Tôn cũng nói các hành là vô thường, là pháp phải chịu sinh diệt.
Thuyết ấy con không hiểu là tà hay chính?
Vô thường có mấy thứ?
Phật dạy: Đại Huệ! Ngoại đạo nói có bảy thứ vô thường, không phải pháp của ta.
Bảy thứ ấy là:
1. Có người cho rằng có sinh khởi rồi xả bỏ, gọi là vô thường, vì sinh rồi bất sinh nên nói là tính vô thường.
2. Lại có kẻ nói hình biến hoại là vô thường.
3. Có kẻ nói sắc là vô thường.
4. Có kẻ nói cái biến dị của sắc là vô thường. Hết thảy các pháp nối nhau không dứt, khiến cái thể tự nhiên biến đổi và diệt.
Như trước là sữa sau biến thành gia ua, sự biến dịch ấy tuy không thấy được song nó chính là yếu tố hủy diệt nằm ngay trong mọi sự vật.
5. Có kẻ nói các vật có ra là vô thường.
6. Có kẻ cho hữu phi hữu existence, nonexistence là vô thường.
7. Có kẻ nói bất sinh là vô thường ở khắp trong mọi pháp.
Trong số những quan diểm ấy, hữu phi hữu vô thường Bhàvàbhàvànityatà, nghĩa là các tướng năng tạo sở tạo đều hoại diệt, còn tự tính của đại chủng thì bản lai không khởi. Bất sinh vô thường Anutpàdànityatà là các pháp thường, vô thường v.v... đều không có.
Như thế hết thảy đều không có gì sinh. Cho đến phân tách thành vi trần cũng không thấy gì. Vì không sinh khởi nên nói là vô sinh.
Đây gọi là bất sinh vô thường. Nếu không hiểu nghĩa ấy tức sa vào nghĩa sinh vô thường của ngoại đạo, nghĩa là ở chỗ không phải thường không phải vô thường mà tự sinh ra phân biệt.
Nghĩa ấy thế nào?
Nghĩa là có một vật gọi là vô thường tự nó không bị hoại diệt, nhưng có thể hoại các pháp. Nếu không có cái vô thường hoại hết các pháp, thì rốt cuộc pháp sẽ bất diệt, thành không có vô hữu như chiếc gậy hay hòn đá, hay như một cái búa đập nát mọi vật khác mà tự nó thì không hoại, ở đây cũng vậy.
Đại Huệ! Đây là nghĩa của ngoại đạo nhưng vô thường và hết thảy các pháp ta thấy trước mắt thì không thấy đâu là sai biệt năng tác sở tác, để nói được rằng đây là vô thường, còn đây là cái bị vô thường nó hoại diệt. Vậy thành ra năng tác sở tác đều thường cả mới phải, vì không thấy cái nhân khiến cho các pháp thành ra phi hữu.
Đại Huệ! Về các pháp bị hoại diệt thật ra có nhân, nhưng phiền một nỗi là không phải chỗ phàm ngu hiểu được.
Đại Huệ, nhân khác không thể sinh ra quả khác, nếu sinh được, thì hết thảy các pháp đều sinh lẫn nhau, pháp này pháp kia năng sinh sở sinh đều không khác nhau gì cả. Nhưng hiện thấy có khác.
Làm sao dị nhân sinh dị quả?
Đại Huệ! Nếu có một pháp objective existence gọi là vô thường thì cũng đồng với cái sở tác kết quả và thành ra tự nó cũng vô thường, vì vô thường cho nên các pháp vô thường đây đều là thường cả.
Đại Huệ! Nếu tính vô thường ở trong các pháp, thì đáng cùng các pháp sa vào ba giai đoạn quá khứ, hiện tai, vị lai, cùng với sắc quá khứ mà diệt, cùng vị lai không sinh, hiện tại cùng hoại.
Các ngoại đạo cho rằng thể tính của bốn đại là không hoại, tức là bốn đại khác với sắc do bốn đại tạo, vì lìa khác với không khác. Tự tính của nó cũng không hoại diệt.
Đại Huệ! Những pháp năng tạo, sở tạo trong ba cõi không có gì là không phải tướng sinh, trụ, diệt, làm sao có riêng một tính vô thường có thể sinh ra các vật mà tự nó không diệt?
Thuyết cho rằng đầu tạo sau diệt nên gọi là vô thường pràrambhavinivttryanityatà cũng không vững, vì các đại chủng khác nhau không thể tạo lẫn nhau. Không phải mỗi đại tự tạo, vì không có cái khác ở trong nó.
Cũng không cùng tạo vì trái nhau. Cho nên biết không phải thủy tạo vô thường hình trạng hoại vô thường tribhavacittamàtra ấy là không phải hoại năng tạo cùng sở tạo nhưng hình trạng hoại.
Nghĩa ấy thế nào?
Ấy là chẻ tách sắc cho tới vi trần, chỉ diệt cái hình trạng dài ngắn v.v... đã thấy. Chứ không diệt cái sắc thế năng tạo sở tạo. Kiến này sa vào số luận Sàmkhyavadà Sắc tức là vô thường Rùpam evànityam ấy có nghĩa hình trạng là vô thường, không phải tính tứ đại là vô thường.
Nếu tính đại chủng cũng vô thường thì tất là không có Thế Giới. Không có Thế Giới nên biết ấy là sa vào kiến chấp của thế luận thấy hết thảy pháp do tự tướng sinh chỉ có trên ngôn thuyết.
Chuyển biến vô thường Vikàràityatà ấy là sắc chủng rùpa hay hình thức biến đổi chứ không phải đại chủng tứ đại biến đổi. Thí như lấy vàng làm các món trang sức, các món này có biến đổi nhưng vàng thì không. Đây cũng vậy.
Đại Huệ! Các kiến ngoại đạo như thế hư vọng phân biệt về vô thường.
Họ nói như vậy: Lửa không thể đốt cháy tự tướng của nó, mà chỉ phân tán ra. Nếu nó có thể thiêu đốt được, tức thì năng tạo sở tạo đều đoạn diệt.
Đại Huệ! Ta nói các pháp không thường không vô thường.
Vì sao?
Vì không chấp pháp ngoài, vì ba cõi chỉ là tâm Tribhavacittamàtra, vì không nói tới các tướng, vì các sai biệt của đại chủng tính đều không sinh không diệt, không có năng tạo sở tạo, vì năng thủ sở thủ đều do phân biệt khởi, vì biết hai tính thủ năng sở đúng như thật, vì hiểu rõ duy tâm hiện, vì lìa hai kiến chấp hữu vô của ngoại đạo, lìa kiến hữu vô nên không phân biệt năng tạo sở tạo.
Đại Huệ! Các pháp thế gian, xuất thế gian, và xuất thế gian thượng thượng chỉ là tự tâm, không thường, không vô thường. Không hiểu rõ như thế sẽ sa vào hai biên kiến ngoại đạo.
Đại Huệ! Ngoại đạo không rõ biết ba pháp ấy do phân biệt nên khởi ngôn thuyết chấp trước tính vô thường.
Đại Huệ! Cảnh giới ngữ ngôn phân biệt của ba pháp này không phải chỗ phàm phu biết được.
Thế Tôn lại nói bài tụng:
Trước tạo rồi sau xả
Hình trạng có chuyển biến
Các sắc vật vô thường
Ngoại đạo vọng phân biệt
Các pháp không hoại diệt
Tự tính đại thường trú
Các kiến chấp ngoại đạo
Nói thế là vô thường
Các chúng ngoại đạo kia
Đều nói: Không sinh diệt
Các tính đại tự thường
Cái gì là vô thường?
Năng thủ và sở thủ
Hết thảy đều là tâm
Hai thứ do tâm hiện
Không có ngã, ngã sở
Các pháp như Phạm Thiên
Ta nói chỉ là tâm
Nếu lìa xa nơi tâm
Hết thảy không có được.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Sáu - Sáu Pháp - Phẩm Mười - Phẩm Lợi ích - Phần Bốn - Khổ
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Sân Hận
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Ba - Phẩm Vô Thường - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Tập địa Tạng Thập Luân - Phẩm Ba - Phẩm Vô Y Hành - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tu Từ