Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Mười Năm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẬT THUYẾT KINH
NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý
HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẦN MƯỜI NĂM
Bồ Tát Cát Tường Phong Vương thưa: Bạch Thế Tôn! Đối với lợi dưỡng, nếu có sự mong cầu thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con đối với các việc danh tiếng, lợi dưỡng… đều xả bỏ, chẳng phải điều mà Bậc Thánh cho phép thì đều xa lìa. Như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Đại Tràng thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có hai tưởng pháp hoặc phi pháp thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Nếu lìa hai tưởng ấy, được pháp bình đẳng như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Thắng Mật thưa: Nếu bị bệnh phiền não bức bách thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con được sức trí tuệ của chư Thánh, điều phục phá bỏ phiền não, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Trì Cự thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu ở trong cảnh giới tối tăm ngu muội thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con được trí quang vô ngại lìa các si ám, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Điện Thiên thưa: Bạch Thế Tôn! Trong pháp, nếu khởi trí tỷ lượng thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con đã chứng được trí hiện lượng, ở trong các pháp không khởi sự tin tưởng nào khác, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Phổ Mật thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu là căn tánh và tâm tán loạn của thế tục, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Đối với các căn, các môn, các xứ, con khéo điều phục sâu kín, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Tịnh Quang thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu đối với pháp chúng sinh có các loại tánh và các loại tưởng, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Đối với tất cả chúng sinh, con khởi tâm bình đẳng và tất cả pháp cũng được bình đẳng, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Tối Thắng Bộ thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu khởi tán loạn chẳng phải tâm định đẳng dẫn, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con trụ tâm định đẳng dẫn không tán loạn, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Đạo Sư thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu không biết rõ pháp chánh đạo, tu hành tà đạo, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đã biết rõ pháp trí chánh đạo, đem chúng sinh tà đạo đặt vào đạo như thật, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bo tát Thiện Tuệ thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu tâm do dự khởi phân biệt, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con nay đã lìa tâm do dự, dứt các phân biệt, lại khiến cho tất cả chúng sinh trừ được bệnh nghi hoặc, như thế mơi có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát biến Chiếu thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu trụ nơi phi pháp, hủy hoại đạo tu hành, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con trụ chánh pháp, chân thật tu hành, lại đặt tất cả chúng sinh đều trụ trong đạo như thật, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Minh Quán thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu còn đầy tuệ nhiễm, lìa pháp quang minh, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đã đắc tuệ quyết định viên mãn, trí thiện xảo, đầy đủ pháp quang minh, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Vô Ngại Tuệ thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có tâm chướng ngại, không thể theo hộ tuệ chúng sinh, như thế thì không thể hộ trì chánh phap. Con dùng tâm không chướng ngại, theo hộ chúng sinh, khiến trụ nơi thắng tuệ, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Hành Tịnh Tuệ thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu không khéo hiểu căn cơ các chúng sinh, lại không thể biết việc làm của các chúng sinh, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đối với căn hành của tất cả chúng sinh đều hiểu biết, thâm nhập, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Trang Nghiêm Vương thưa: Bạch Thế Tôn! Đối với pháp, nếu có tưởng phân biệt, còn nương vào ngã, nhân và nương vào pháp, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Đối với tất cả phân biệt, phi phân biệt, con đều lìa biến kế, ba luân thanh tịnh, không ngã, không nhân, không pháp nương tựa, cũng không tạo tác, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Sư Tử Tràng thưa: Bạch Thế Tôn! Chúng sinh nơi thế gian nghe tất cả pháp không sinh không khởi đều hoảng sợ, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đã biết rõ tất cả pháp không sinh, không khởi, lại không kinh sợ, không thấy có pháp hoặc gần, hoặc xa, an trụ ở như thật, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát từ Thị thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu đối với bồ đề, khởi tưởng xa vời, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp.
Nếu có Bồ Tát khởi tư duy thế này: Ta tuy đắc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác nhưng không thấy bồ đề đối với thân hoặc tâm, có sự hòa hợp, chẳng phải không hòa hợp, Bồ Tát như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Công Đức Quang Vương thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu trụ nơi phi công đức, lìa công đức chân thật không cầu công đức thù thắng của Như Lai, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp.
Con đã xa lìa các phi công đức, an trú nơi công đức chân thật của Bồ Tát, dốc cầu công đức tối thắng của Như Lai, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ Tát Diệu Cát Tường thưa: Bạch Thế Tôn! Như người cuồng loạn trong đời nói như thế này: Con có thể hộ trì chánh pháp của Như Lai, thì đấy chẳng phải lời thành tín.
Vì sao?
Vì như khi Phật Thế Tôn ngồi ở Đạo Tràng không pháp nào có thể đắc, cũng chẳng có chỗ chứng, trong đó làm gì có pháp để có thể hộ trì! Bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp, hoàn toàn con không hộ trì, lìa các chấp trước, chỉ dùng đại bi giữ các pháp tánh. Nhưng đối với các pháp không có sự thành tựu, chẳng phải không thành tựu.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Bồ Tát Đồng tử Diệu Cát Tường: Lành thay, lành thay, Diệu Cát Tường! Đúng như vậy, đúng như vậy, Đúng như lời ông nói! Khi ta ngồi nơi Đạo Tràng không có pháp nhỏ nào có thể đắc. Khi không có chỗ thủ đắc mới nói là ngồi nơi Đạo Tràng.
Diệu Cát Tường bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế Tôn ngồi nơi Đạo Tràng vào lúc nào?
Nếu có chỗ ngồi tức là đối với bồ đề có chỗ thủ đắc. Như vậy mới có hai, là có sự đối ngại riêng biệt và có bồ đề riêng biệt.
Bạch Thế Tôn! Nghĩa là vì Phật và bồ đề không có hai sự đối ngại.
Phật nói: Này Diệu Cát Tường! Tự tánh cua bồ đề tràng ta đã thông đạt, cho nên ta mới ngồi nơi bồ đề tràng, vì tự tánh của ta tức là tự tánh bồ đề tràng. Mà tự tánh của bồ đề tức là tự tánh của tất cả chúng sinh. Tự tánh của tất cả chúng sinh tức là tự tánh của tất cả pháp.
Này Diệu Cát Tường! Vì tự tánh đồng nhất, bình đẳng nhất vị.
Khi ta thành Chánh Giác ở bồ đề tràng, quán bồ đề tràng, không có pháp nhỏ nào mà không giải thoát, nghĩa là vì bồ đề bình đẳng nen hiện chứng các pháp cũng bình đẳng. Nhưng trong pháp bình đẳng không rơi vào các số, vì số cùng phi số đều xa lìa. Vì vậy, pháp bình đẳng ấy Như Lai gọi là vô vi.
Này Diệu Cát Tường! Như Lai đắc vô vi, siêu việt tất cả pháp hữu vi.
Khi Như Lai nói pháp ấy, Bồ Tát Diệu Cát Tường sinh tin hiểu sâu xa và tất cả hội chúng đều tin hiểu pháp giải thoát của Như Lai.
Do tin hiểu nên tất cả đều bình đẳng trong pháp, không có gì vượt ra.
Bấy giờ, các chúng Đại Bồ Tát ở Thế Giới Vô lượng công đức bảo vô cấu thù diệu trang nghiêm, trước hết cùng đến Thế Giới Ta Bà này với Bồ Tát Hải Ý, nghe pháp ấy rồi, tâm ý sung sướng, hết mực vui mừng.
Đều hân hoan cùng phát lời: Chúng con đến Cõi Phật này được vui thích được lợi ích tốt đẹp, được thấy Thế Tôn, lại diện kiến Đại Sĩ Đồng tử Diệu Cát Tường, được nghe thuyết chánh pháp sâu xa này, gặp Phật xuất thế, chuyển đại pháp luân, thấy chánh pháp này hiện trú ở thế gian.
Bạch Thế Tôn! Nếu chánh pháp này ở nơi nào được truyền bá rộng rãi thì các chúng sinh nơi ấy được lợi ích lớn. Lại nữa, nếu có người, ngay khi Phật tại thế hay sau khi Niết Bàn, có thể nghe nhận chánh pháp như thế, nghe rồi tin hiểu, thọ trì đọc tụng, rộng vì người nói thì nên biết, người ấy được lợi ích lớn.
Phật nói: Này chư thiện nam! Như các ngươi biết thì Bồ Tát được bao nhiêu điều lợi ích lớn?
Các Bồ Tát ấy bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát được mười điều lợi ích lớn.
Đây tức là những điều lợi ích đạt được chẳng thể nghĩ bàn:
1. Được lợi ích lớn, gặp Phật ra đời và luôn luôn gần gũi.
2. Được gặp Phật rồi, thâm tâm thanh tịnh.
3. Khởi tâm thanh tịnh nghe thọ chánh pháp.
4. Nghe chánh pháp rồi lìa các nghi hoặc.
5. Lìa nghi hoặc rồi, liền được xuất gia.
6. Đã xuất gia rồi tự nuôi sống bằng sinh hoạt thanh tịnh.
7. Vì đã tự nuôi song bằng sinh họat thanh tịnh nên có thể khéo giảng nói pháp.
8. Khéo giảng nói pháp rồi, phát tâm bồ đề.
9. Do không quên mất tâm bồ đề nên có thể nghe thọ pháp tạng Bồ Tát.
10. Nghe pháp tạng sâu xa của Bồ Tát rồi, dựa vào pháp tu hành, được đại lợi này.
Bạch Thế Tôn! Các pháp như thế là mười thứ lợi ích lớn của Bồ Tát. Đây tức là lợi ích tốt đẹp được hình thành, nếu các Bồ Tát an trú như thế thì đó gọi là khéo được lợi ích lớn.
Khi ấy, Phật khen ngợi: Lành thay, lành thay! Đại Sĩ các vị! Khéo nói lợi ích lớn mà Bồ Tát đạt được.
Khi Phật giảng nói pháp này rồi, trong chúng hội có ba vạn sáu ngàn người phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Bấy giờ, Đại Bồ Tát Hải Ý bạch Phật: Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Người tu đại thừa tạo lợi ích rất nhiều cho tất cả chúng sinh. Nghĩa là các Thiên Nhân thọ hưởng niềm vui của Trời người mới có thể gần gũi niềm vui tối thắng vi diệu của Niết Bàn.
Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu loại pháp để có thể tùy chuyển, nhiếp thọ?
Có bao nhiêu pháp có thể thường làm ở trong đại thừa?
Lại có bao nhiêu pháp rất khó làm ở trong đại thừa?
Lại có bao nhiêu pháp làm tăng trưởng đại thừa?
Lại có bao nhiêu pháp là chướng nạn ở trong đại thừa?
Bạch Thế Tôn! Lại vì duyên gì mà gọi là đại thừa?
Phật bảo Bồ Tát Hải Ý: Ông nên nghe kỹ. Nay ta sẽ giảng nói.
Hải Ý nên biết! Có một loại pháp đại thừa thâu nhận.
Loại pháp đó là gì?
Đó là không quên mất tâm đại bồ đề, lại không phóng dật.
Này Hải Ý! Lại có một pháp đại thừa thâu nhận, đó là tin mọi việc làm đều mang theo nghiệp báo.
Lại có một pháp, đó là phát khởi chánh kiến, đối với pháp duyên sinh không chống trái.
Lại có một pháp, đó là lìa ái, phi ái, đối với tất cả chúng sinh khởi tam bình đẳng.
Lại có một pháp, đó là an trú theo đại từ để tự cứu độ.
Lại có một pháp, đó là khởi tâm đại bi, không tham đắm cái vui của mình.
Lại có một pháp, đó là mong cầu Phật thân, tùy niệm nơi Phật.
Lại có một pháp, đó là nương pháp chân tu tùy niệm Pháp.
Lại có một pháp, đó là an trú trong chúng bất thoái chuyển, tùy niệm Chúng.
Lại có một pháp, đó là dứt trừ tất cả phiền não, tùy niệm Xả.
Lại có một pháp, đó là thường không quên mất tâm bồ đề nên tùy niệm Giới.
Lại có một pháp, đó là an trú nơi pháp thanh tịnh, tùy niệm Thiên.
Lại có một pháp, đó là tùy trụ lợi lạc khiến người hoan hỷ.
Lại có một pháp, đó là trụ nơi ý kiên cố, vui muốn cực thiện.
Lại có một pháp, đó là khởi tâm hoan hỷ vì tất cả chúng sinh mở bày giải thoát.
Lại có một pháp, đó là từ pháp sâu xa như lý xuất sinh, dốc cầu chánh pháp.
Lại có một pháp, đó là không vì tâm tài lợi mà hành pháp thí.
Lại có một pháp, đó là đối với người nghe pháp, khởi tưởng là bệnh nhân.
Lại có một pháp, đó là đối với pháp đã giảng nói, tưởng như thuốc hay, người đã thuyết pháp tưởng như Y Vương.
Lại có một pháp, đó là thường hộ vệ khiến pháp tồn tại lâu dài.
Lại có một pháp, đó là khiến hạt giống Tam Bảo không đoạn, không tuyệt.
Lại có một pháp, đó là không tham, tương tục thường xuyên sinh hỷ túc.
Lại có một pháp, đó là xả bỏ các sở hữu, không khởi ái trước.
Lại có một pháp, đó là tự giữ giới và thường ngăn chặn các người phá giới.
Lại có một pháp, đó là đối với người làm ác, không xem xét lỗi của họ, mà an trú nơi nhẫn.
Lại có một pháp, đó là đối với người làm lành, phát khởi giúp đỡ và an trú nhẫn.
Lại có một pháp, đó là đối với người bội ơn, khởi tuệ thương yêu.
Lại có một pháp, đó là đối với người biết ơn, khởi lòng thương cung kính.
Lại có một pháp, đó là đối với người vô trí, không khởi tâm kiêu mạn.
Lại co một pháp, đó là đối với người có trí theo họ thọ học.
Lại có một pháp, đó là với thiện căn sâu bền, tâm không chán bỏ.
Lại có một pháp, đó là đối với các pháp thiện, tâm luôn theo đuổi.
Lại có một pháp, đó là không dua nịnh quanh co nên ba giới thanh tịnh.
Lại có một pháp, đó là đối với người thuyết pháp, ái kính phụng sự tưởng như tôn sư.
Lại có một pháp, đó là bỏ các sách vở ngoại đạo, khéo nghe chánh pháp.
Lại có mot pháp, đó là tu các thiện căn, tuy là gian khổ, ở trong sinh tử, cũng không mệt mỏi.
Lại có một pháp, đó là đối với Chư Phật Như Lai hiện trú ở đời và đã nhập Niết Bàn, phụng sự cúng dường không chán nản.
Lại có một pháp, đó là làm bạn không mời thỉnh của các chúng sinh.
Lại có một pháp, đó là dùng tâm không nương, không giữ, không đắm, mà tu bốn nhiếp pháp.
Lại có một pháp, đó là hiểu rõ các tội lỗi của tại gia, rồi ưa xuất gia.
Lại có một pháp, đó là đối với sự nghiệp chánh sĩ thường khai triển.
Lại có một pháp, đó là việc làm quyết định, trụ đạo bồ đề, tu thêm thắng hạnh.
Lại có một pháp, đó là đối với người đồng trụ đại thừa, không sinh buồn giận.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Hòn Sắt
Phật Thuyết Kinh đại Thánh Hàn Lâm Nan Noa đà La Ni
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Thích đề Hoàn Nhân Vấn
Phật Thuyết Kinh Bảo Vũ - Phần Hai Mươi Sáu
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Học - Phần Mười Một
Phật Thuyết Kinh đại Bi đại ái - Phẩm Hai - Phẩm Tán Thán Pháp Hội
Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Mười Năm