Phật Thuyết Kinh đạo Thần Túc Vô Cức Biến Hóa - Phần Năm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Pháp Khâm, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠO THẦN TÚC VÔ CỰC BIẾN HÓA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Pháp Khâm, Đời Tây Tấn
PHẦN NĂM
Này Thiên Tử! Như vậy, các pháp không thể đếm, Pháp Phật cũng không sai khác.
Này Thiên Tử! Do ví dụ như vậy, nên xem xét các pháp như vậy: Pháp Phật và các pháp phải thường suy nghĩ để thực hành và lại nghĩ như là thực hành vậy, thế nên khởi không phải thức nghĩ, thực hành cũng không thể thức nghĩ, đối với Pháp Phật cũng không chỗ suy nghĩ.
Như vậy, là từ suy nghĩ mà khởi lên, chẳng phải trí như vậy, đối với pháp giới không có chỗ tăng, cũng không trụ, cũng không phải không trụ.
Lại nữa, trí tập pháp không thể đối với pháp mà có chỗ tăng giảm.
Vì sao?
Vì nếu có ham thích cầu pháp, không ham thích cầu pháp, đều hiểu biết.
Sao gọi là muốn, sao gọi là không muốn?
Vì đã biết rõ đối với pháp ấy, lại không chạy theo.
Thế nên, này Thiên Tử! Bồ Tát được hạnh sâu xa, nên quán sát như vậy thì trọn không thấy ở pháp, trọn cũng không đối với Pháp Phật mà thấy như vậy, quán sát như vậy, vì không thấy nên phải xem xét.
Này Thiên Tử! Nói như vậy ma hoặc ma Trời không thể nào hoại Bồ Tát.
Này Thiên Tử! Đức Phật nói như thế đó!
Đức Phật vừa trình bày xong, Nguyệt Thiên Tử liền thưa: Bạch Thế Tôn! Những việc làm của Đại Bồ Tát rất sâu xa kỳ lạ và đặc biệt, biết đầy đủ các việc của trí tuệ. Đối với sinh tử biết rõ như vậy mới làm những việc cầu đạo, mà không biếng nhác, như vậy khởi, diệt, trên, dưới mới không thể tận.
Đức Phật nói: Này Thiên Tử! Ví như huyễn hóa. Hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc chỗ cầu, hoặc chỗ nói. Đều cũng không chỗ có.
Này Thiên Tử! Ví như huyễn hóa. Muốn biết, tất cả các pháp đều như vậy, tất cả các pháp khởi, diệt, quá khứ, tương lai, hiện tại số kiếp ấy, cũng như vậy. Bồ Tát cũng không nghĩ khởi lên, cũng không nghĩ đến việc mình làm của đời trước.
Thiên Tử lại hỏi: Tại sao Đức Thế Tôn nói Bồ Tát không nghĩ có khởi lên chỗ sinh?
Vì sao Đức Phật lên cung Trời Đao Lợi, đến chỗ mẫu thân ở trọn ba tháng hạ, Đức Thế Tôn có phải từ Ma Da sinh ra không?
Đức Phật trả lời Thiên Tử: Chỗ sinh của Đức Như Lai, không từ pháp sinh tử, mà là trụ vào như như. Như là không đến, không đi. Phật sinh như vậy.
Đức Phật nói tiếp: Này Thiên Tử! Chư Phật từ bát nhã Ba la mật sinh ra. Chư Phật Thế Tôn đều từ bát nhã Ba la mật sinh ra.
Vì sao vậy?
Ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, không từ Ma Da sinh ra. Này Thiên Tử! Nên học bát nhã Ba la mật như vậy. Bát nhã Ba la mật là mẹ của Chư Phật, ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân đều học từ bát nhã Ba la mật.
Nguyệt Thiên Tử bạch Phật: Con suy nghĩ kỹ, bát nhã Ba la mật không chỗ sinh, không chỗ diệt.
Vì sao Đức Thế Tôn nói bát nhã Ba la mật là mẹ của Chư Phật?
Đức Phật nói: Như Thiên Tử đã nói, Bồ Tát đang học, đã học bát nhã Ba la mật liền được thân tướng Chư Phật. Ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, đều quy về mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi, tam muội, bước đi một mình. Trí tuệ của Đức Phật biết ý của người khác đều quy về đó. Như thế, biết Đức Phật không sinh từ Ma Da.
Thế nên, này Thiên Tử! Nên biết trí tuệ của Phật sinh từ bát nhã Ba la mật, có vô số việc của trí tuệ, không thể đếm, nay chỉ nêu sơ lược về các việc ấy, đều là như vậy.
Thiên Tử lại hỏi: Pháp của Chư Phật Thế Tôn thảy đều đầy đủ. Như vậy, Đức Như Lai như cái Như đó, tùy theo cái Như mà được thành tựu.
Này Thiên Tử! Những việc đã thấy là như vậy, thì nên thấy Chư Phật sinh từ bát nhã Ba la mật, nhưng cũng không sinh từ bát nhã Ba la mật, đối với pháp không có tưởng căn, cũng không khởi căn, cũng không tranh giành, trừ bỏ.
Thiên Tử lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Vì sao Đức Thế Tôn sinh ra từ bát nhã Ba la mật?
Đức Phật đáp: Này Thiên Tử! Như pháp của Như Lai là như như, tùy theo chỗ mà tạo ra pháp, thế nên pháp chẳng sinh, chẳng khởi, chẳng diệt.
Này Thiên Tử! Pháp chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng khởi, như vậy như vậy, khác là ở trí tuệ. Trí tuệ sinh từ bát nhã Ba la mật, gọi là Như Lai sinh ra từ bát nhã Ba la mật. Sinh như vậy, là chẳng sinh, chẳng khởi chẳng diệt. Chẳng sinh, chẳng khởi, chẳng diệt, Bồ Tát học tập sẽ mau gần kề bát nhã Ba la mật.
Này Thiên Tử! Trí bát nhã Ba la mật không thể tận, lại cũng không thể tận bát nhã Ba la mật.
Thiên Tử lại hỏi Đức Thế Tôn: Bạch Thế Tôn! Trí tuệ ấy, suy nghĩ thế nào?
Làm sao để biết trí bát nhã Ba la mật là không thể tận?
Đức Phật lại bảo Thiên Tử: Đối với trí tuệ không suy nghĩ mà có trí.
Này Thiên Tử! Đối với trí tuệ, có suy nghĩ, có trí, thì chẳng phải là trí tuệ, trí tuệ không thể tận.
Vì sao vậy?
Này Thiên Tử! Tâm biết có công lao, trọn không có thể được, không thể biết hết, nên biết như vậy, chẳng phải trí tuệ.
Này Thiên Tử! Trí tuệ là trí không còn suy nghĩ, nếu trí tuệ có tận thì chẳng phải là trí tuệ.
Thiên Tử lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Vì sao không thể tận, chỗ để hỏi từ đâu, chỗ để biết từ đâu?
Đức Phật đáp: Này Thiên Tử! Cái không thể tận, chẳng từ sự buông lung mà tìm cầu.
Thiên Tử lại hỏi Đức Thế Tôn: Bạch Thế Tôn! Không buông lung ấy, là những thứ gì?
Đức Phật đáp: Này Thiên Tử! Làm các điều ác ở ba cõi mà không xả bỏ, cũng không lìa các ác trong ba cõi, lại đã xả bỏ các hạnh ác trong ba cõi.
Này Thiên Tử! Tất cả đều tùy theo các việc làm không buông lung.
Quả báo ấy như thế nào?
Đối với ba cõi, chẳng khởi, chẳng diệt, là quả báo ấy.
Thiên Tử lại hỏi Đức Thế Tôn: Bạch Thế Tôn! Nếu có đệ tử, từ đây dạo qua ba cõi, vì người mà nói pháp có được chăng?
Đức Phật nói: Này Thiên Tử! Đối với Cõi Dục có thể để đệ tử nói pháp cho đệ tử, nhưng chẳng thể có lợi ích cho Cõi Dục.
Đối với Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc mà để đệ tử nói pháp cho đệ tử thì hoàn toàn không lợi ích. Dùng tam muội dạo ở ba cõi mà nói pháp, thì không thể biết được lời dạy của Đức Thế Tôn, cũng chẳng thấy việc dùng sức tam muội dạo ở Cõi Dục để có chỗ mà nói ra. Nhưng Thiên Tử Cõi Vô Sắc, tuy dạo ở Cõi Dục lại không thể có chỗ để mà nói.
Dùng sức tam muội dạo ở Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc, đối với những gì đã nói ở Cõi Vô Sắc thì không có lợi ích ở Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc hoàn toàn không có chỗ giải thoát. Tuy dạo ở ba cõi, chỉ có thể giải thoát cho chính mình, chẳng làm lợi ích cho người khác.
Này Thiên Tử! Tuy biết ba cõi, nhưng chẳng luyến ái ở ba cõi, mà giữ vững pháp không, cũng không học ở Cõi Dục, không thể ở Cõi Sắc, lại cũng không ở Cõi Vô Sắc. Như vậy là không thể ở ba cõi, cũng không sinh ở ba cõi, cũng sinh ở ba cõi, cũng không biết từ đâu mà đến.
Này Thiên Tử! Là hạng người bỏ thân nên đối với thị xứ không thể biết, cũng không thấy qua, cũng chẳng thấy lại.
Vì sao?
Vì tất cả các pháp ở ba cõi, không gặp nhau.
Này Thiên Tử! Ví như hư không, chẳng sinh, chẳng thể thấy, không có người tạo ra, lại chẳng gặp, vì đã có từ quá khứ. Này Thiên Tử! Tất cả các pháp trong ba cõi đều như vậy.
Khi Đức Phật nói pháp này, trong chúng các Trời có bảy vạn hai ngàn Thiên Tử xa lìa các pháp do cõi trần, được Pháp nhãn tịnh. Có một vạn sáu ngàn Thiên Tử, đời trước đã tạo công đức, nay lại nghe nói pháp ấy, nên đều phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có tám ngàn Bồ Tát đạt được bất khởi pháp nhẫn.
Bấy giờ, người ở trong chúng hội, nương oai thần của Đức Phật, đều thấy được việc chưa từng thấy, lấy hoa ở trên áo, tung lên Đức Phật, lúc đó oai thần của Đức Phật làm cho hoa ấy biến khắp Cõi Trời Đao Lợi.
Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhân đến trước Đức Phật bạch: Rất kỳ lạ! Bạch Thế Tôn! Các tộc tánh tử ấy đã rải hoa vốn chưa được thấy.
Bấy giờ, Nguyệt Thiên Tử nói với Thích Đề Hoàn Nhân: Này Câu Dực! Đức Thế Tôn cũng chưa từng thấy, hoa cũng vậy.
Vì sao?
Này Câu Dực! Dùng tâm ấy để thấy Đức Thế Tôn, tâm ấy là diệt tận, không thể thấy được.
Này Câu Dực! Như vậy việc đó có thể thấy, nhưng trước đó chưa từng thấy.
Thích Đề Hoàn Nhân lại hỏi Thiên Tử: Thưa Nhân Giả! Thế nào là thấy Phật?
Thiên Tử đáp: Như vậy là Đức Thế Tôn thấy ta. Ta thấy Đức Thế Tôn, cũng lại như vậy.
Thích Đề Hoàn Nhân lại hỏi Thiên Tử: Thế nào là thấy?
Thiên Tử đáp: Này Câu Dực! Đức Như Lai như Như sắc, như Như thọ thống, tưởng, hành, thức đều là như như, ta thấy Đức Như Lai như vậy.
Này Câu Dực! Ta không dùng sắc để thấy Như Lai, cũng không dùng thọ thống, tưởng, để thấy Như Lai, cũng không dùng hành thức để thấy Như Lai.
Vì sao?
Vì sắc là tự nhiên, chẳng khởi, chẳng diệt. Thọ thống, tưởng, hành, thức cũng vậy. Tướng của pháp năm ấm này, tướng ấy không có tướng, đều như chiếu khắp.
Này Câu Dực! Đức Như Lai, không thể thấy như vậy.
Này Câu Dực! Ông có muốn thấy Đức Như Lai phải giống như Đức Phật thấy ta, ta thấy Đức Phật cũng vậy.
Câu Dực lại hỏi Thiên Tử: Thế nào là như Đức Phật thấy Nhân Giả?
Thiên Tử đáp: Này có Đức Phật ở đây, ông tự thưa hỏi Đức Phật.
Lúc đó, Thích Đề Hoàn Nhân đến trước Phật, bạch: Bạch Thế Tôn! Làm sao Đức Như Lai thấy Nguyệt Thiên Tử?
Đức Phật nói: Không dùng sắc để thấy. Cũng không dùng thống dương, tư tưởng, sinh tử, thức mà thấy. Cũng không thấy từ đời trước. Cũng không thấy đến tương lai. Cũng không thấy hiện tại. Cũng không thấy người phàm. Cũng không thấy người phàm giải thoát.
Cũng không thấy nói sự học. Cũng không thấy pháp không học. Cũng không thấy A La Hán. Cũng không thấy pháp A La Hán. Cũng không thấy ở pháp đệ tử. Cũng không thấy nơi quả vị Bích Chi Phật. Cũng không thấy quả vị Phật.
Đã thấy như vậy, thì này Câu Dực! Như vậy là đã thấy Phật. Thấy Phật như vậy là không chỗ thấy. Không chỗ thấy như vậy chính là thấy bình đẳng. Thị hiện như vậy gọi là tất cả thị hiện, đúng thật là thị hiện, phải nên xem xét như vậy.
Này Câu Dực! Đó gọi là Như Lai. Đức Như Lai đối với pháp giới không chỗ khuyết giảm.
Này Câu Dực! Ý ông thế nào?
Đức Như Lai thấy như vậy, xem xét như vậy, là thấy những gì?
Câu Dực đáp: Đó gọi là thấy Phật.
Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai như vậy gọi là không dính mắc đối với sắc. Như vậy, Đức Như Lai đối với sắc đó, không có dính mắc, không có chấp trước.
Thích Đề Hoàn Nhân lại hỏi Đức Thế Tôn: Bạch Thế Tôn! Như vậy là thấy Phật ư?
Đức Phật nói: Này Câu Dực! Bồ Tát đạt được nhẫn không từ đâu sinh, đối với tất cả các pháp giới đều bình đẳng cũng không lìa pháp này mà thấy pháp.
Thích Đề Hoàn Nhân lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nguyệt Thiên Tử này đã đạt được pháp nhẫn không từ đâu sinh chưa?
Đức Phật trả lời Thích Đề Hoàn Nhân: Ông tự đem việc này, để hỏi Nguyệt Thiên Tử, Nguyệt Thiên Tử sẽ trình bày cho ông.
Nghe Đức Phật dạy như thế, Thích Đề Hoàn Nhân quay sang hỏi Nguyệt Thiên Tử: Thưa Nhân Giả! Nhân Giả đã được pháp nhẫn không từ đâu sinh, phải không?
Nguyệt Thiên Tử hỏi lại: Này Câu Dực! Nếu không có chỗ sinh mà có khởi, được không?
Thích Đề Hoàn Nhân trả lời: Thưa không.
Thiên Tử lại nói: Này Câu Dực! Nếu không có chỗ sinh, không chỗ khởi. Thì tại sao lại hỏi là có được pháp nhẫn không từ đâu sinh.
Thiên Tử lại nói: Này Câu Dực! Pháp giới không chỗ sinh, ví dụ đó đúng như vậy. Thế nên, pháp giới cũng chẳng khởi, cũng chẳng diệt, đều không thể biết.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đức Phật Vì Sa Già La Long Vương Nói Kinh đại Thừa
Phật Thuyết Kinh Phật Vì Hải Long Vương Dạy Pháp ấn
Phật Thuyết Kinh Như Lai độc Chứng Tự Thệ Tam Muội
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Hai Mươi Sáu - Phẩm Thập địa - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Sinh - đức Phật Thuyết Giảng Về Việc Dạy Bảo Con