Phật Thuyết Kinh đồng Tử Thiện Tư - Phần Năm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT
KINH ĐỒNG TỬ THIỆN TƯ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẦN NĂM
Bồ Tát không biếng trễ
Không bị người hủy nhục
Đó là tinh tấn nhất
Gọi là không lấy, bỏ.
Thân tâm thiện chất trực
Có thể hành hạnh này
Đó là tinh tấn nhất
Vì các Bồ Tát nói.
Bồ Tát nếu lười biếng
Không phát khởi các hành
Không lấy cũng không bỏ
Trụ đó tinh tấn nhất.
Cõi tâm không thủ đắc
Hoặc ngoài hoặc ở trong
Nên gọi tâm tịch định
Tâm ấy không xứ sở.
Duyên dựa và tâm hành
Trong chân như không có
Tam muội ấy khó bàn
Thị hiện định như vậy.
Ta nói tam muội này
Tu Già Đà tự tại
Có thể hành hạnh ấy
Ta nói đạt định ấy.
Không dùng trí biết được
Có các pháp chân như
Chân như và trí tuệ
Hai biên này không có.
Pháp này không thủ đắc
Đó là cảnh giới thức
Pháp không do thức biết
Tịch xứ ấy chân thể.
Người biết được như vậy
Người ấy đạt chân niệm
Bồ Tát hành chân như
Người đời không thể hành.
Thù thắng tất cả chúng
Vì chúng sinh thuyết pháp
Đã không tướng chúng sinh
Huống là có đồ chúng.
Chúng sinh như huyễn hóa
Huyễn hóa cũng không có
Người hay nói như vậy
Là người không sợ hãi.
Hoặc ta, hoặc thân khác
Cả hai đều không có
Có thể đạt trí này
Không hề có kinh sợ.
Ở trong và ở ngoài
Hữu tướng rốt ráo không
Tâm không chỗ khiếp nhược
Vượt hẳn tất cả đời.
Các pháp không tự thể
Giống như hành hư không
Đã như hành hư không
Pháp chân như cũng vậy.
Trí này khéo biết rõ
Bồ Tát không chỗ sợ
Khéo biết tất cả pháp
Là biết hành chúng sinh.
Đã biết không chúng sinh
Tất cả pháp cũng vậy
Biết rõ về trí, cõi
Cõi ấy không thủ đắc.
Nếu vào pháp môn này
Đường ấy là tối thắng
Có thể từ đường này
Liền biết hành chúng sinh.
Cảnh giới và chúng sinh
Cả hai không có vật
Muốn biết các pháp môn
Cần biết thắng trí này.
Hoặc trong, hoặc ở ngoài
Trí tuệ không xứ tập
Trong các pháp vô ngại
Nên gọi là thật tế.
Các pháp khó nghĩ bàn
Nên gọi là pháp Phật
Kia không có nơi chốn
Chỗ ấy lại cũng không.
Nếu có thể hành vậy
Thế gian không chướng ngại
Trí đã không có ngại
Nên gọi là trí Phật.
Các pháp khó nghĩ bàn
Chúng kia không chân chánh
Các pháp đã không thể
Là biết pháp Chư Phật.
Phật và pháp Chư Phật
Cả hai đều không có
Vì không có bồ đề
Đó gọi là Phật Đạo.
Người nương đại thừa này
Đến chỗ pháp an lạc
Đời này là tối thắng
Người đời không thủ đắc.
Phàm chỗ có thế gian
Chúng sinh tất cả chốn
Bồ Tát là hơn hết
Người hành thắng trí này.
Hay cầu các pháp ấy
Pháp Phật khó nghĩ bàn
Đạt được các pháp này
Ấy liền gần bồ đề.
Bồ đề và các pháp
Cả hai rốt ráo không
Có thể hành như vậy
Liền gần pháp Chư Phật.
Hành giả có thể hành
Không nhiễm các thế gian
Đã không có tâm nhiễm
Thì gần đến bồ đề.
Đức Thế Tôn nói kệ này rồi lại bảo Đồng Tử Thiện Tư: Này Thiện Tư!
Nay ta nêu rõ: Nếu có Đại Bồ Tát nào khéo mặc áo giáp, ở trong Kinh Điển sâu xa như vậy có thể khéo thuyết giảng. Khi khéo giảng nói pháp tối diệu, vi mật, người ấy nghe rồi không kinh hãi, không sợ sệt, không hối hận, không chìm đắm.
Đại Bồ Tát như vậy liền được trú nơi Đạo Tràng Bồ Đề, liền được nhập vào cảnh giới của Chư Phật, liền chứng vô ngại, liền trụ trong pháp môn giải thoát vô vi.
Lại nữa, có thể khéo trụ trong hành vô đắc, tức có thể quán sát tất cả mười phương, tức có thể chứng được đại từ, đại bi, liền đắc mười tám pháp bất cộng của Chư Phật, liền đắc bậc quán đảnh tối đại vô thượng.
Lúc giảng nói pháp sâu xa vi diệu này, có thể có người tin làm, có thể có người tư duy về pháp như vậy. Chư Phật đã quán sát thấy những vị Bồ Tát ấy, tất cả Chư Phật đã hộ trì họ.
Hoặc co Bồ Tát có thể tin hành, hoặc có người không tin hành, thì tất cả Chư Phật cũng đều thấu rõ. Nếu người nào có thể nhập nơi pháp môn ấy thì Chư Phật cũng đã biết rõ. Nếu người nào có thể tin làm pháp môn ấy thì ta sẽ vì các người ấy mà làm thầy, tất cả họ đều theo ta xuất gia.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Đồng Tử Thiện Tư, nhằm nêu rõ lại nghĩa này nên nói kệ:
Bậc này chứng Đạo Tràng
Đạo Tràng tức là không
Nếu không thủ bồ đề
Bac kia liền trụ trí.
Các pháp không có ngại
Rốt ráo không thủ đắc
Pháp đã không thủ đắc
Giải thoát cũng như vậy.
Người hành trí Chư Phật
Nơi tất cả các pháp
Và với các pháp hành
Thế Tôn nói như vậy.
Chỗ có ngại, không ngại
Ngu si khởi tâm ấy
Phật cùng Đại Bồ Tát
Không phân biệt như vậy.
Tuy quán pháp thế gian
Thế gian rốt ráo không
Trí hay quán thế gian
Trí ấy cũng không có.
Chúng sinh và Chư Phật
Một loại không phân biệt
Đã không chỗ phân biệt
Từ bi là tối thắng.
Tánh Pháp Giới rộng lớn
Chúng sinh giới cũng vậy
Các Bồ Tát đại trí
Không tư duy như vậy.
Tuy muốn khởi tâm từ
Từ ấy không tự thể
Thể từ và vô tánh
Phi cảnh giới chúng sinh.
Năm ngón lường hư không
Trước không nay cũng không
Các thế gian cũng vậy
Từ bi là tối thắng.
Bậc vô thượng các pháp
Gọi là pháp Chư Phật
Chư Phật không chỗ đắc
Đó tức là chân thể.
Thế Tôn đại từ bi
Không có hình và sắc
Pháp không sắc như vậy
Hành ấy gọi thế gian.
Hư không không bờ bến
Cảnh giới không thể nắm
Pháp Chư Phật như vậy
Người trí hành thuận theo.
Đó là trí vô thượng
Mà trí không thủ đắc
Trí đã không chỗ đắc
Chỗ ấy thật không có.
Bờ này và bờ kia
Hoặc tư duy, hoặc thấy
Bậc ấy không hành này
Thâm diệu là gọi tướng.
Nếu rõ pháp bình đẳng
Tất cả chỗ bình đẳng
Trong pháp hành của ta
Không nhờ cầu tri thức.
Nếu tâm có lấy, bỏ
Phân biệt nơi hai kiến
Người nói có việc này
Chẳng phải tri thức thiện.
Nếu nói pháp này thành
Hoặc nói pháp này diệt
Thiện Tư, Tỳ Kheo ấy
Chẳng phải đệ tử ta.
Người nói chứng khổ diệt
Rốt ráo không thủ đắc
Pháp Sư nói như vậy
Không thể nói pháp ta.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Sáu Mươi Năm - Phẩm Hư Không
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Mười Sáu - Phẩm Bát Nhã Ba La Mật đa - Phần Tám
Phật Thuyết Kinh Tam Muội Ngồi Thiền - Phần Một - Pháp Môn Trị Tham Dục
Phật Thuyết Kinh Phổ Diệu - Phẩm Hai - Phẩm Thuyết Pháp Môn