Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Sáu Mươi - Phẩm Tăng Thượng Mạn - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI THỨ HAI
PHẨM SÁU MƯƠI
PHẨM TĂNG THƯỢNG MẠN
PHẦN BA
Lại nữa Thiện Hiện! Thánh Đế khổ, tập, diệt, đạo cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.
Các pháp duyên tánh và các chi duyên khởi cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.
Pháp nội không cho đến vô tính tự tính không cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự hiểu biết giác ngộ, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.
Chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng là thầy, là người hướng dẫn, là ánh sáng, là đuốc, là đèn chiếu soi, là sự giác ngộ hiểu biết, là trí huệ, là sự cứu giúp hộ trì, là nhà cửa, là đảo, là cồn bãi, là nơi qui thú, là cha mẹ đối với các vị Đại Bồ Tát.
Vì sao?
Vì tất cả Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều lấy bố thí Ba la mật đa cho đến cảnh giới bất tư nghì làm thầy, làm người hướng dẫn, làm ánh sáng, làm đuốc, làm đèn chiếu soi, làm sự giác ngộ hiểu biết, làm trí huệ, làm sự cứu giúp hộ trì, làm nhà cửa, làm đảo, làm cồn bãi, làm nơi qui thú, làm cha mẹ.
Vì sao?
Này Thiện Hiện! Tất cả Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều từ bố thí Ba la mật đa nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì mà sanh ra.
Vậy nên Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào có ý nghĩ tăng thượng muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, giáo hóa hữu tình, trang nghiêm Cõi Phật thì nên học bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa, nên học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh Đạo, nên học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên học tám giải thoát cho đến mười biến xứ.
Nên học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nên học Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa, nên học pháp môn Đà La Ni và Tam Ma Địa, nên học năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Nên học mười lực Như Lai, bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, nên học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, nên học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên học tất cả các hạnh của Đại Bồ Tát.
Nên học quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật, nên học dứt trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục, nên học Thánh Đế khổ, tập, diệt, đạo, nên học các pháp duyên tánh và các chi duyên khởi, nên học pháp nội không cho đến vô tính tự tính không, nên học chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này đã học bố thí Ba la mật đa nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì, lại nên đem bốn nhiếp sự thu nhiếp các hữu tình.
Bốn việc đó là: Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự.
Này Thiện Hiện! Do quán sát ý nghĩa này nên ta nói: Việc bố thí Ba la mật đa nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì là thầy, là người hướng dẫn nói rộng cho đến là cha mẹ của các vị Đại Bồ Tát.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào muốn không làm theo lời người khác, không sống dựa vào lời người khác, muốn dứt trừ sự nghi ngờ của tất cả hữu tình, muốn làm mãn nguyện tất cả hữu tình, muốn trang nghiêm Cõi Phật, muốn giáo hóa hữu tình thì nên học bát nhã Ba la mật đa.
Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì trong kinh bát nhã Ba la mật đa sâu xa có nói rộng các pháp mà các vị Đại Bồ Tát nên học. Tất cả các vị Đại Bồ Tát cần phải siêng năng tu học các pháp ở trong ấy.
Khi ấy, Thiện Hiện thưa: Bạch Đức Thế Tôn! bát nhã Ba la mật đa sâu xa lấy gì làm tướng?
Phật Bảo: Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa sâu xa lấy hư không, sự không chấp trước và vô tướng làm tướng.
Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì ở trong tướng bát nhã Ba la mật đa sâu xa đây, các pháp, các tướng đều không chỗ có và không thể được.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Chắc là có lý do để nói về diệu tướng của bát nhã Ba la mật đa, các pháp cũng có tướng như vậy phải không?
Phật Bảo: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói. Do có lý do nên có thể nói về tướng vi diệu của bát nhã Ba la mật đa, các pháp cũng có diệu tướng như vậy.
Vì sao?
Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa sâu xa lấy sự xa lìa làm tướng. Các pháp cũng lấy sự xa lìa làm tướng. Bát nhã Ba la mật đa sâu xa lấy tánh không làm tướng, các pháp cũng lấy tánh không làm tướng. Do đó có thể nói các pháp cũng có diệu tướng giống như diệu tướng mà bát nhã Ba la mật đa có bởi vì các pháp đều có tự tánh là không và xa lìa các tướng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tất cả các pháp đều có tự tánh là không và xa lìa các tướng thì đối với tất cả pháp, tất cả pháp không cùng tất cả pháp, tất cả pháp xa lìa, vậy tại sao hữu tình bày ra sự nhiễm tịnh?
Vì chẳng phải pháp tánh không có nhiễm có tịnh, cũng chẳng phải pháp xa lìa có nhiễm có tịnh, chẳng phải pháp tánh không có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, cũng chẳng phải pháp xa lìa có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Chẳng phải trong tánh không có pháp có thể được, cũng chẳng phải trong sự xa lìa có pháp có thể được, chẳng phải trong tánh không có Đại Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề cũng chẳng phải trong sự xa lìa có Đại Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Bạch Thế Tôn! Làm sao con có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa mà Phật đã dạy?
Phật Bảo Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Từ lâu hữu tình có ngã và ngã sở, có tâm chấp ngã và ngã sở không?
Thiện Hiện đáp: Đúng vậy thưa Thế Tôn! Đã từ lâu hữu tình có ngã, ngã sở và tâm chấp chặt ngã, ngã sở.
Phật dạy: Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Chỗ chấp ngã và ngã sở của hữu tình có trống không và xa lìa không?
Thiện Hiện đáp: Đúng vậy thưa Thế Tôn! Chỗ chấp ngã và ngã sở của hữu tình đều trống không và xa lìa.
Phật Bảo: Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Há chẳng phải do chấp ngã và ngã sở mà hữu tình trôi lăn trong sanh tử.
Phật Bảo: Này Thiện Hiện! Hữu tình này trôi lăn trong sanh tử là do có tạp nhiễm. Vì vậy hành động của hữu tình có sự nhiễm ô. Nếu các hữu tình không có tâm chấp trước ngã và ngã sở thì không có tạp nhiễm. Nếu không có tạp nhiễm thì không có trôi lăn trong sanh tử. Việc trôi lăn sanh tử đã không thể được thì nên biết hữu tình xa lìa tạp nhiễm do không có tạp nhiễm xen lẫn với hữu tình.
Vì vậy này Thiện Hiện! Nên biết tuy hữu tình có tự tánh là không và xa lìa các tướng nhưng có thể tạo ra có nhiễm có tịnh.
Khi ấy cụ thọ Thiện Hiện lại bạch: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát có thể thực hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa như vậy và tất cả các pháp không xa lìa các tướng thì Đại Bồ Tát ấy không thực hành sắc, cũng không thực hành thọ, tưởng, hành, thức.
Không thực hành nhãn xứ, cũng không thực hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Không thực hành sắc xứ, cũng không thực hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không thực hành nhãn giới, cũng không thực hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Không thực hành sắc giới, cũng không thực hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không thực hành nhãn thức giới, cũng không thực hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Không thực hành nhãn xúc, cũng không thực hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Không thực hành các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng không thực hành các cảm thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Không thực hành địa giới, cũng không thực hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Không thực hành nhân duyên, cũng không thực hành đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.
Không thực hành vô minh, cũng không thực hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Không thực hành bố thí Ba la mật đa, cũng không thực hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Không thực hành pháp nội không.
Không của các pháp nội tại, cũng không thực hành pháp ngoại không.
Không của các pháp ngoại tại, nội ngoại không.
Không của các pháp nội ngoại tại, không không không của không.
Đại không không lớn, thắng nghĩa không.
Không của chân lý cứu cánh, hữu vi không.
Không của các pháp hữu vi, vô vi không không của các pháp vô vi, tất cánh không không tối hậu rốt ráo, vô tế không.
Không không biên tế, tán vô tán không không của sự không phân tán.
Bản tính không. Không của bản tính tự nhiên tính, tự cộng tướng không.
Không của tự cộng tướng, nhất thiết pháp không. Không của vạn hữu, bất khả đắc Không không của cái bất khả đắc, vô tính không.
Không của vô thể cái không tồn tại, tự tính không. Không của tự tính, vô tính tự tính không.
Không của vô thể của tự tính tự tính của cái không tồn tại.
Không thực hành chân như, cũng không thực hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Không thực hành Thánh Đế khổ, cũng không thực hành Thánh Đế tập, diệt, đạo.
Không thực hành bốn niệm trụ, cũng không thực hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh Đạo. Không thực hành bốn tịnh lự, cũng không thực hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Không thực hành tám giải thoát, cũng không thực hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Không thực hành pháp môn giải thoát không, cũng không thực hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Không thực hành Tịnh quán địa, cũng không thực hành Chủng Tánh Địa, Đệ Bát Địa, Cụ Kiến Địa, Bạc Địa, Ly Dục Địa, Dĩ Biện Địa, Ðộc Giác Địa, Bồ Tát Địa, Như Lai Địa.
Không thực hành Cực Hỷ Địa, cũng không thực hành Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm tuệ Địa, Cực Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Tuệ Địa, Pháp Vân Địa.
Không thực hành tất cả pháp môn Đà La Ni, cũng không thực hành tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Không thực hành năm loại mắt, cũng không thực hành sáu phép thần thông.
Không thực hành mười lực Như Lai, cũng không thực hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng.
Không thực hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Không thực hành quả Dự Lưu, cũng không thực hành quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, Ðộc Giác Bồ Đề. Không thực hành trí nhất thiết, cũng không thực hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì sao?
Vì đối với các pháp này, năng hành, sở hành, nguyên do hành, lúc thực hành, nơi thực hành đều bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào có thể thực hành như vậy thì không bị tất cả thế gian, Trời, Người, A Tố Lạc… hàng phục mà có thể chế ngự chúng.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào có thể thực hành như vậy thì không bị tất cả Thanh Văn, Ðộc Giác hàng phục mà có thể chế ngự họ.
Vì sao?
Vì Bồ Tát này đã an trụ vào địa vị không gì có thể khiến họ hàng phục, nghĩa là địa vị ly sanh của Bồ Tát.
Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát này thường trụ ở ý nghĩ về trí nhất thiết trí nên không thể khuất phục.
Bạch Thế Tôn! Lúc Đại Bồ Tát này thực hành như vậy thì được gần trí nhất thiết trí và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Phật dạy: Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy!Như ông đã nói. Đại Bồ Tát nào có thể thực hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa và tất cả pháp không, xa lìa các tướng thì Đại Bồ Tát ấy không thực hành sắc, cũng không thực hành thọ, tưởng, hành, thức cho đến không thực hành trí nhất thiết, cũng không thực hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đối với các pháp này, năng hành, sở hành, nguyên nhân thực hành, lúc thực hành, nơi thực hành đều bất khả đắc.
Đại Bồ Tát nào có thể thực hành như vậy thì không bị tất cả thế gian, Trời, Người, A Tu La… làm cho hàng phục, và cũng không bị Thanh Văn, Ðộc Giác làm cho hàng phục mà ngược lại Bồ Tát ấy có thể làm cho những người kia hàng phục mình.
Đại Bồ Tát này đã an trụ vào địa vị không ai có thể làm cho hàng phục là địa vị ly sanh của Bồ Tát. Vị ấy thường trụ ở trí nhất thiết trí và có ý nghĩ không thể khuất phục. Nhờ vậy, vị ấy ở gần trí nhất thiết trí và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Lại nữa Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Giả sử ở Châu Nam Thiệm Bộ này, các loài hữu tình đều được thân người. Sau khi được thân người họ phát tâm tu học các hạnh của Bồ Tát và đều chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Có các thiện nam tử, thiện nữ… trọn đời đem các vật dụng quý giá trân trọng của thế gian cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này, lại đem căn lành đã tích tụ được cho khắp các hữu tình một cách bình đẳng, để hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề thì nhờ nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ… đó có được phước nhiều không?
Thiện Hiện đáp: Thưa Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu ở giữa đại chúng, thiện nam tử, thiện nữ nào tuyên thuyết pháp bát nhã Ba la mật đa sâu xa, hướng dẫn, kiến lập, phân biệt, khai thị làm cho những người kia dễ hiểu và có tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa sâu xa thì nhờ nhân duyên này thiện nam tử, thiện nữ… đó thu hoạch được công đức nhiều hơn công đức trước vô lượng, vô số.
Lại nữa Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Giả sử các loài hữu tình ở ba ngàn đại thiên Thế Giới đều được thân người, sau khi được thân người họ phát tâm tu học các hạnh của Bồ Tát và chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Có thiện nam tử, thiện nữ… suốt đời đem đầy đủ các vật dụng quí giá cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Họ lại đem căn lành của sự tu tập cho các hữu tình một cách bình đẳng để hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Do nhân duyên này, thiện nam tử, thiện nữ… đó được phước có nhiều không?
Thiện Hiện đáp: Thưa Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật Bảo: Thiện Hiện! Nếu ở giữa đại chúng, thiện nam tử, thiện nữ… nào tuyên thuyết bát nhã Ba la mật đa sâu xa, hướng dẫn, kiến lập, phân biệt, khai thị làm cho mọi người dễ hiểu và có tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa sâu xa thì nhờ nhân duyên này thiện nam tử, thiện nữ… đó được công đức lớn hơn công đức trước vô lượng, vô số.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Giả sử ở Châu Nam Thiệm Bộ, các loài hữu tình chẳng trước, chẳng sau đều được thân người, có thiện nam tử, thiện nữ… khéo léo dạy bảo hướng dẫn giúp mọi người sống theo mười nghiệp lành, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông, hoặc quả Dự Lưu.
Hoặc quả Nhất Lai, hoặc quả Bất Hoàn, hoặc quả A La Hán, hoặc Ðộc Giác Bồ Đề, hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề rồi đem căn lành dạy bảo, hướng dẫn cho các hữu tình một cách bình đẳng, để hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề thì nhờ nhân duyên này, thiện nam tử, thiện nữ… đó được phước có nhiều không?
Thiện Hiện đáp: Thưa Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật Bảo: Này Thiện Hiện! Nếu ở giữa đại chúng, thiện nam tử, thiện nữ… nào tuyên thuyết bát nhã Ba la mật đa sâu xa, hướng dẫn, kiến lập, phân biệt, khai thị làm cho mọi người dễ hiểu và có an trụ tâm niệm tương ưng với trí nhất thiết trí thì nhờ nhân duyên này thiện nam tử, thiện nữ… đó được công đức lớn hơn công đức trước vô lượng, vô số.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Giả sử các loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên Thế Giới đều được thân người, có thiện nam tử, thiện nữ… tìm cách hướng dẫn giúp cho mọi người an trụ vào mười nghiệp lành, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc.
Hoặc năm Thần Thông, hoặc quả Dự Lưu, hoặc quả Nhất Lai, hoặc quả Bất Hoàn, hoặc quả A La Hán, hoặc Ðộc Giác Bồ Đề, hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, họ lại đem căn lành dạy bảo, hướng dẫn cho các hữu tình một cách bình đẳng, để hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề thì nhờ nhân duyên này, thiện nam tử, thiện nữ… đó được phước có nhiều không?
Thiện Hiện đáp: Thưa Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật Bảo Thiện Hiện: Nếu ở giữa đại chúng, thiện nam tử, thiện nữ… nào giảng nói bát nhã Ba la mật đa sâu xa, hướng dẫn, kiến lập, phân biệt, khai thị làm cho họ dễ hiểu và có sự an trụ tâm chánh niệm tương ưng với trí nhất thiết trí thì nhờ nhân duyên này thiện nam tử, thiện nữ… đó được công đức lớn hơn công đức trước vô lượng, vô số.
Thiện Hiện! Ông nên biết nhờ sự Tinh Tấn đối với pháp này mà Đại Bồ Tát đó được oai lực tăng thượng, đến được bờ bên kia và là ruộng phước của các hữu tình.
Vì sao?
Vì Đại Bồ Tát này siêng năng thực hành chánh pháp nên được oai lực tăng thượng, tất cả hữu tình không thể sánh kịp chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Vì sao?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này tu hành bát nhã Ba la mật đa thấy các hữu tình không được lợi ích, vui vẻ liền phát tâm đại từ, đó chẳng phải là việc mà các Thanh Văn, Ðộc Giác có được.
Thấy các hữu tình khổ não họ liền phát tâm đại bi, đó chẳng phải là việc mà các Thanh Văn, Ðộc Giác có được. Thấy các hữu tình được lợi lạc họ sanh tâm đại hỷ, đó chẳng phải là việc mà các Thanh Văn, Ðộc Giác có được. Thấy các hữu tình lìa tánh, lìa tướng họ liền sanh tâm đại xả, đó chẳng phải là việc mà các Thanh Văn, Ðộc Giác có được.
Này Thiện Hiện! Tuy phát sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả một cách bình đẳng đối với các hữu tình nhưng Đại Bồ Tát này không chấp trước bất cứ điều gì, không giống như phàm phu Thanh Văn, Ðộc Giác đạt được điều gì thì sanh tâm chấp trước.
Thiện Hiện! Tuy Đại Bồ Tát này phát tâm từ, bi, hỷ, xả một cách bình đẳng đối với các hữu tình nhưng vị ấy không thường cộng trụ, với tâm buông bỏ và luôn luôn làm lợi ích giáo hóa các hữu tình không bao giờ lìa bỏ.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này tu hành bát nhã Ba la mật đa được ánh sáng lớn, nghĩa là được ánh sáng lớn bố thí Ba la mật đa, được ánh sáng lớn tịnh giới Ba la mật đa, được ánh sáng lớn an nhẫn Ba la mật đa, được ánh sáng lớn tinh tấn Ba la mật đa, được ánh sáng lớn tịnh lự Ba la mật đa, được ánh sáng lớn bát nhã Ba la mật đa.
Này Thiện Hiện! Tuy chưa chứng đắc trí nhất thiết trí nhưng Đại Bồ Tát này đã được bất thối chuyển đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, đã sang bờ kia và là ruộng phước của các hữu tình, có thể thọ nhận tất cả y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, ghế, thuốc men và các thứ cần dùng.
Thiện Hiện! Do thường có sự an trụ tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa nên Đại Bồ Tát đó có thể báo đáp hoàn toàn ơn của thí chủ, cũng có thể thân cận trí nhất thiết trí.
Thế nên, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào muốn không phải hưởng thọ một cách hư dối đồ cúng dường của Vua, Đại Thần và các hữu tình khác, muốn chỉ cho hữu tình con đường thật sự trong sạch, muốn làm ngọn đèn lớn chiếu soi cho các hữu tình, muốn giải thoát hữu tình khỏi lao ngục ba cõi.
Muốn bố thí cho các hữu tình pháp nhãn thanh tịnh, muốn vớt hữu tình ra khỏi biển sanh tử, muốn làm hòn đảo lớn cho các hữu tình, muốn ban cho hữu tình sự an lạc rốt ráo thì phải thường an trụ tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa sâu xa.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thường an trụ tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa sâu xa, nói điều gì cũng là pháp tương ưng với pháp bát nhã Ba la mật đa sâu xa, sau khi đã nói pháp tương ưng với bát nhã Ba la mật đa, họ lại tư duy đúng lý về pháp tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này thường an trụ tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa, không để cho các tâm niệm khác phát sanh xen lẫn dù trong khoảnh khắc.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này an trụ tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa không có lúc nào lìa bỏ. Giống như có người trước chưa từng có bảo châu mạc ni, sau khi có được rất vui mừng, nhưng vì cất giấu không cẩn thận nên lại bị mất. Người ấy rất buồn rầu thường than thở, tiếc rẻ, và luôn luôn có tâm niệm làm cách gì để có được hạt châu ấy trở lại.
Do tâm niệm tương ưng đó, tâm trí người ấy lúc nào cũng nghĩ đến bảo châu. Cũng như vậy, các Đại Bồ Tát phải thường an trụ tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Nếu lìa tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa thì bị tan mất tâm niệm tương ưng với trí nhất thiết trí.
Vì vậy, Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát phải thường an trụ tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa, nếu thường an trụ tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa thì không bị đánh mất tâm niệm tương ưng với trí nhất thiết trí.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả tâm niệm đều có tự tánh là không, tự tánh của tất cả tâm niệm đều xa lìa, các pháp cũng như vậy. Ở trong tất cả các pháp có tự tánh là không, tự tánh xa lìa, hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa.
Hoặc trí nhất thiết trí, hoặc các tâm niệm đều bất khả đắc, vậy tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khuyên các vị Đại Bồ Tát không lìa tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa, cũng không lìa tâm niệm tương ưng với trí nhất thiết trí.
Phật Bảo Thiện Hiện: Đại Bồ Tát nào biết các pháp, tất cả tâm niệm đều có tự tánh là không và có tự tánh xa lìa.
Tánh không và tánh xa lìa này chẳng phải do Thanh Văn tạo ra, chẳng phải do Ðộc Giác tạo ra, chẳng phải do Bồ Tát tạo ra, chẳng phải do Như Lai tạo ra, chẳng phải do bất cứ ai tạo ra nhưng tất cả các pháp: Pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh không hư dối, tánh không thay đổi, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới hư không, chân như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì đều thường trụ như vậy.
Đại Bồ Tát này như vậy tức là không lìa tâm niệm tương ưng với bát nhã Ba la mật đa sâu xa, cũng là không lìa tâm niệm tương ưng với trí nhất thiết trí.
Vì sao?
Vì bát nhã Ba la mật đa sâu xa, trí nhất thiết trí và tất cả tâm niệm đều có tự tánh không, tự tánh xa lìa. Tự tánh không và xa lìa không tăng, không giảm có thể thông đạt nên gọi là không xa lìa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu bát nhã Ba la mật đa sâu xa cũng có tự tánh là không và tự tánh xa lìa thì vì sao sau khi tu chứng tánh bình đẳng của bát nhã Ba la mật đa rồi các Đại Bồ Tát mới đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Phật Bảo Thiện Hiện: Lúc các vị Đại Bồ Tát tu chứng tánh bình đẳng của bát nhã Ba la mật đa thì chẳng phải các pháp của Phật có tăng có giảm, cũng chẳng phải các pháp: Pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh không hư vọng, tánh không thay đổi, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới hư không, chân như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì có tăng có giảm.
Vì sao?
Vì bát nhã Ba la mật đa sâu xa chẳng một, chẳng hai, chẳng ba, chẳng bốn cũng chẳng phải nhiều.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghe nói bát nhã Ba la mật đa sâu xa này mà tâm không kinh khiếp, không khủng hoảng, không sợ hãi, không thối mất, cũng chẳng nghi ngờ thì Bồ Tát này thực hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu đã được rốt ráo, đã an trụ vào địa vị bất thối chuyển của Bồ Tát, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề và làm cho tất cả hữu tình được lợi ích lớn.
Khi ấy cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chính bát nhã Ba la mật đa sâu xa trống không, chẳng có, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc, có thể thực hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa không?
Này Thiện Hiện! Không được.
Lìa bát nhã Ba la mật đa sâu xa trống rỗng, chẳng có, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc, có pháp nào có thể đắc, có thể thực hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa không?
Này Thiện Hiện! Không được.
Bạch Thế Tôn! Chính bát nhã Ba la mật đa sâu xa có thể thực hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa không?
Này Thiện Hiện! Không được.
Bạch Thế Tôn! Lìa bát nhã Ba la mật đa sâu xa có pháp nào có thể đắc, có thể thực hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa không?
Này Thiện Hiện! Không được.
Bạch Thế Tôn! Chính tánh không có thể thực hành pháp không được không?
Này Thiện Hiện! Không được.
Bạch Thế Tôn! Lìa tánh không có pháp nào có thể đắc, có thể thực hành pháp không được không?
Này Thiện Hiện! Không được.
Bạch Thế Tôn! Chính sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thể thực hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa không?
Này Thiện Hiện! Không được.
Bạch Thế Tôn! Lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào có thể đắc, có thể thực hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa không?
Này Thiện Hiện! Không được.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Khuất Ma
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Bốn Mươi Bảy - Phẩm Mười Sáu Cách Nhớ
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Vô Minh - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tàm Quý - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Chín - Pháp Hội đại Thừa Thập Pháp - Phần Một