Phật Thuyết Kinh Duyên Khởi
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH DUYÊN KHỞI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Huyền Trang, Đời Đường
Như vậy tôi nghe!
Một thời Đức Bạc Già Phạm Thế Tôn ngự ở Vườn Cấp Cô Độc trong rừng Thệ Đa tại thành Xá Vệ cùng với vô lượng vô số Thanh Văn, Bồ Tát, Trời, Người… cùng đến dự.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo chúng Bật Sô chúng Tỳ Kheo: Ta sẽ vì ông tuyên nói nghĩa sự khởi đầu, sự sai biệt của duyên khởi. Ông nên nghe cho kỹ, suy nghĩ thật khéo. Nay ta vì ông phân biệt giải nói.
Chúng Bật Sô nói: Thưa vâng! Nguyện xin hãy nói. Chúng con ưa thích lắng nghe.
Đức Phật nói: Thế nào gọi là sự khởi đầu của duyên khởi, duyên khởi sơ?
Là y theo cái này có cho nên cái kia có, cái này sinh cho nên cái kia sinh.
Ấy là vô minh duyên với hành.
Hành duyên với thức.
Thức duyên với danh sắc.
Danh sắc duyên với sáu xứ.
Sáu xứ duyên với xúc.
Xúc duyên với thọ.
Thọ duyên với ái.
Ái duyên với thủ.
Thủ duyên với hữu.
Hữu duyên với sinh.
Sinh duyên với lão tử dấy lên sự buồn rầu, than thở, đau khổ, lo lắng, bưc bội. Đây gọi là thuần đại khổ uẩn tập. Như vậy là nghĩa sự khởi đầu của duyên khởi.
Thế nào gọi là sự sai biệt của duyên khởi duyên khởi sai biệt?
Là vô minh duyên với hành.
Thế nào là vô minh?
Là đối với đời trước tiền tế thì không có hiểu biết, đối với đời sau hậu tế thì không có hiểu biết, đối với đời trước đời sau tiền hậu tế thì không có hiểu biết, đối với bên trong nội thì không có hiểu biết, đối với bên ngoài ngoài thì không có hiểu biết. Đối với bên trong bên ngoài nội ngoại thì không có hiểu biết, đối với nghiệp thì không có hiểu biết, đối với dị thục quả báo.
Xưng chung cho việc y theo điều thiện ác trong quá khứ mà được quả báo thì không có hiểu biết, đối với nghiệp.
Dị thục thì không có hiểu biết.
Đối với Phật thì không có hiểu biết.
Đối với Pháp thì không có hiểu biết.
Đối với Tăng thì không có hiểu biết.
Đối với khổ thì không có hiểu biết.
Đối với tập thì không có hiểu biết.
Đối với diệt thì không có hiểu biết.
Đối với đạo thì không có hiểu biết.
Đối với nhân thì không có hiểu biết.
Đối với quả thì không có hiểu biết.
Đối với nhân đã sinh các pháp thì không có hiểu biết.
Đối với thiện thì không có hiểu biết.
Đối với bất thiện thì không có hiểu biết.
Đối với có tội thì không có hiểu biết.
Đối với không có tội thì không có hiểu biết.
Đối với nên tu tập thì không có hiểu biết.
Đối với chẳng nên tu tập thì không có hiểu biết.
Đối với thấp kém hạ liệt thì không có hiểu biết.
Đối với thượng diệu tinh diệu, cực tốt thì không có hiểu biết.
Đối với hắc điều xấu ác thì không có hiểu biết.
Đối với bạch điều tốt lành thì không có hiểu biết.
Đối với hữu dị phần có tài năng, có sự đặc biệt do Trời phân chia thì không có hiểu biết.
Đối với duyên đã sinh hoặc sáu chỗ tiếp chạm, thông đạt như thật thì không có hiểu biết.
Như vậy đối với sự như thật của mỗi mỗi nơi ấy thì không có hiểu biết, không có kiến hay: Điều mà con mắt đã nhìn thấy. Không có hiện quán cảnh quán chiếu hiện ra trước mặt, ngu si, không có sáng tỏ, đen tối. Đây là vô minh.
Thế nào là hành?
Hành có ba loại là thân hành nghiệp thiện ác do thân đã gây tạo. Ngữ nành nghiệp thiện ác do lời nói đã gây tạo. Ý hành nghiệp thiện ác do ý đã gây tạo. Đây gọi là hành. Hành duyên với thức.
Thế nào là thức?
Là sáu thức thân:
Một là nhãn thức sự nhận biết phân biệt của con mắt.
Hai là nhĩ thức sự nhận biết phân biệt của con mắt.
Ba là tỵ thức sự nhận biết phân biệt của con mắt.
Bốn là thiệt thức sự nhận biết phân biệt của con mắt.
Năm là thân thức sự nhận biết phân biệt của con mắt.
Sáu là ý thức sự nhận biết phân biệt của con mắt.
Đây gọi là thức. Thức duyên với danh sắc.
Thế nào gọi là danh?
Là bốn cái không có sắc uẩn hình thể vật chất:
Một là thọ uẩn cảm giác.
Hai là tưởng uẩn tri giác.
Ba là hành uẩn lưu chuyển tạo ứng.
Bốn là thức uẩn nhận thức.
Thế nào là sắc?
Là các hình thể màu sắc có được. Tất cả bốn đại chủng đất, nước, gió, lửa với cái mà bốn đại chủng đã tạo ra. Sắc này với danh lúc trước, gom lược lại làm một, tên hợp chung là danh dắc. Đây là danh sắc.
Danh sắc duyên với sáu xứ.
Thế nào là sáu xứ?
Là sáu nội xứ:
Một là nhãn nội xứ hay con mắt.
Hai là nhĩ nội xứ hay lỗ tai.
Ba là tỵ nội xứ hay: Lỗ mũi.
Bốn là thiệt nội xứ hay cái lưỡi.
Năm là thân nội xứ hay: Thân xác.
Sáu là ý nội xứ hay: Ý căn tức khí quan hiểu biết hết thảy làm lộ ra năng lực hiểu biết.
Đây là sáu xứ. Sáu xứ duyên với xúc.
Thế nào là xúc?
Là sáu xúc thân:
Một là nhãn xúc. Sự tiếp chạm của con mắt với hình thể màu sắc.
Hai là nhĩ xúc. Sự tiếp chạm của lỗ tai với âm thanh.
Ba là tỵ xúc. Sự tiếp chạm của lỗ mũi với mùi ngửi.
Bốn là thiệt xúc. Sự tiếp chạm của cái lưỡi với vị nếm.
Năm là thân xúc. Sự tiếp chạm của thân xác với các cảm xúc.
Sáu là ý xúc. Sự tiếp chạm của ý căn với trần cảnh.
Đây gọi là xúc. Xúc duyên với thọ.
Thế nào là thọ?
Thọ có ba loại là lạc thọ, cảm giác khoan khoái vui vẻ.
Khổ thọ, cảm giác bực bội khó chịu.
Bất khổ bất lạc thọ, cảm giác dửng dưng không khổ không vui.
Đây gọi là thọ. Thọ duyên với ái.
Thế nào là ái?
Ái có ba loại là dục ái, sự thỏa thích thương mến dính theo năm dục và luyến ái ở Dục Giới.
Sắc ái, sự thỏa thích thương mến dính theo hình thể màu sắc và luyến ái ở Sắc Giới.
Vô sắc ái, sự thỏa thích thương mến dính theo điều không có hình thể màu sắc và luyến ái ở Vô Sắc Giới. Đây gọi là ái. Ái duyên với thủ.
Thế nào là thủ?
Là bốn thủ:
Một là dục thủ, khi đối với cảnh năm dục của Dục Giới đã sinh khởi sự tham chấp.
Hai là kiến thủ chấp trước vào cái thấy của tâm tà là chân thật.
Ba là giới cấm thủ, chấp trước cho cái nhân chẳng phải chính đúng, con đường chẳng phải chính đúng mà cho là cái nhân chính đúng, con đường chính đúng.
Bốn là ngã ngữ thủ, chấp trước thuận theo ngã chấp về tất cả điều đã dấy lên của chính thân mình.
Đây gọi là thủ. Thủ duyên với hữu.
Thế nào là hữu cái có, cái được?
Hữu có ba loại là dục hữu dục giới.
Sắc hữu sắc giới.
Vô sắc hữu vô sắc giới.
Đây gọi là hữu. Hữu duyên với sinh.
Thế nào là sinh?
Là mỗi một hữu tình kia đối với mỗi một loại hữu tình ấy, các sinh đẳng, sinh thú dấy lên hiện ra uẩn, được giới, được xứ, được các uẩn, sinh khởi mệnh căn hiện ra.
Đây gọi là sinh. Sinh duyên với lão tử.
Thế nào là già lão?
Là tóc bị suy kém biến đổi, làn da dần bị nhăn nheo suy kém tổn hoại, xương sống trên thân bị cong gù, nốt ruồi màu đen xen kẽ trên thân, hơi thở hổn hển gấp gáp, hình mạo bị cong về phía trước bằng cớ là phải nương vào cây gậy, mê mờ gầy gò yếu kém, tổn giảm suy thoái.
Các căn già nua, công dụng phá hoại, các hành mục nát cho nên hình thể ấy bị hư nát. Đây gọi là lão.
Thế nào là chết tử?
Là mỗi một hữu tình ấy, từ mỗi một loài hữu tình cuối cùng bị hoại mất, buông bỏ tuổi thọ, buông bỏ sự ấm áp. Mạng căn lùi diệt, vứt bỏ các uẩn. Lúc chết thời xoay vần tận hết. Đây gọi là chết tử.
Cái chết tử này với sự già lão lúc trước gom lược làm một, hợp gọi là Lão Tử. Như vậy gọi là nghĩa sai biệt của duyên khởi.
Này Bật Sô! Ta đã vì các ông nói chỗ tiêu biểu về nghĩa của sự khởi đầu, sự sai biệt của duyên khởi. Khi Đức Bạc Già Phạm nói Kinh này xong thời chúng Thanh Văn, Bồ Tát, Trời, Người… nghe điều Đức Phật đã nói đều rất vui vẻ, được điều chưa từng có, tin nhận, phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Tám - Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Mười Hai - Phẩm Hiến Thực Dâng đồ ăn
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Ha Sắc Dục Pháp
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bảo Vân - Phẩm Bảy - Phẩm Bảo Tích - Tập Hai