Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Sáu Mươi Bảy - Phẩm ưu Ba Cúc đề
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tuệ Giác, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT KINH HIỀN NGU
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tuệ Giác, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM SÁU MƯƠI BẢY
PHẨM ƯU BA CÚC ĐỀ
Tôi nghe như thế này!
Thuở nọ Đức Phật ở tại vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ.
Bấy giờ nước này có một vị Phạm Chí tên A Ba Cúc Đề, ông là một người thông minh học rộng, thấu xưa đạt nay.
Ông đi đến chỗ Phật cầu xin làm Sa Môn, nhân đó bạch: Nếu con xuất gia, trí tuệ biện tài cùng bằng Ngài Xá Lợi Phất… nếu không bằng như vậy sẽ tự trở về nhà.
Đức Phật nói: Ông không bằng được. Khi ấy vị Phạm Chí ngừng lại không học đạo trở về nhà.
Sau đó Đức Thế Tôn bảo với chúng hội: Ta diệt độ rồi, trong một trăm năm sau, vị Bà La Môn này sẽ được pháp hóa chứng đạt lục thông, trí tuệ cao xa, giáo hóa chúng sinh, số như vi trần.
Khi Đức Phật Niết Bàn, Ngài bảo A Nan: Sau khi ta diệt độ tất cả Kinh Tạng ắt phó chúc cho ông, ông sẽ thọ trì lưu bố rộng rãi.
Sau khi Thế Tôn diệt dộ, A Nan trì pháp.
Sau đó Tôn Giả A Nan lại muốn xả thân, bảo đệ tử Da Thế Kỳ: Sau khi ta qua đời, tất cả yếu điển, ngươi nên giữ gìn.
Ngài Anan nhân đó bảo: Nước Ba La Nại sẽ có một cư sĩ tên là Cúc Đề, người này có con tên là Ưu Ba Cúc Đề. Ông hãy đến hỏi để cùng làm đạo, nếu ông thọ chung, giao phó pháp cho người ấy.
Tôn Giả A Nan diệt độ rồi, Da Thế Kỳ phụng trì Phật Pháp, du hóa thế gian, độ người rất nhiều. Ngài đến Ba La Nại, đến lui nhà cư sĩ để cùng quen biết, thường hay tới lui nhà cư sĩ ấy. Vị cư sĩ đó sinh được một đứa con trai tên A Ba Cúc Đề. Lúc đứa bé còn nhỏ Da Thế Kỳ đến đó hỏi, muốn khiến nó học đạo.
Cha nó đáp: Tôi mới có một đứa con để nối dòng không thể cho, nếu có sinh thêm thì sẽ cho. Sau này sinh được một đứa con trai tên Nan Đà Cúc Đề. Bấy giờ Da Thế Kỳ lại đến hỏi xin.
Người cha nói: Con lớn ở dinh ngoài, con thứ ở dinh trong. Nhà cửa như vậy mới có thể hưng thịnh. Nếu sau này có chắc chắn sẽ dâng cho. Da Thế Kỳ là bậc A La Hán, đầy đủ Tam Minh, có thể biết được căn cơ con người, quán thấy hai đứa bé này không có duyên với đạo, cũng không muốn cầu xin nữa.
Bấy giờ nhà vị cư sĩ kia lại sinh một đứa con trai, diện mạo đoan nghiêm, hình tướng thù đặc.
Khi đó Da Thế Kỳ Đến hỏi, người cha nói: Đứa bé này còn nhỏ, chưa có thể phụng sự, hơn nữa nhà lại nghèo. Dần dần lớn lên, cậu bé có tài trí, người cha bèn giao phó tài vật cho buôn bán. Khi ấy Da Thế Kỳ Đi đến bên cậu ấy thuyết pháp dạy buộc niệm, dùng viên đá đen trắng để trù tính. Hễ nghĩ thiện thì để viên đá trắng, nghĩ ác thì để viên đá đen.
Ưu Ba Cúc Đề vâng theo lời dạy tùy theo niệm thiện ác mà quăng hòn đá, mới đầu hòn đá đen rất nhiều, đá trắng ít, dần dần tu tập, đen trắng bằng nhau, không ngừng buộc niệm, càng không có hòn đá đen, thuần có viên đá trắng. Niệm thiện đã nhiều chàng đạt đến Sơ Quả.
Lúc đó, trong thành ấy có một dâm nữ, sai tỳ nữ cầm tiền đi mua hoa. Ưu Ba Cúc Đề tâm tánh chất trực, cho cô ấy hoa không lấy tiền.
Tỳ nữ đem hoa về, dâm nữ thấy kỳ lạ, hỏi nữ tỳ: Hôm trước mua hoa cũng bấy nhiêu tiền, vì sao hôm trước ít, hôm nay lại được nhiều hoa?
Tỳ nữ đáp: Hôm nay chủ bán hoa nhân từ thủ lễ, bình đẳng cho, do đó được nhiều. Lại nữa người ấy hình thể đẹp đẽ lạ thường mọi người trông thấy ai cũng mến thương. Dâm nữ nghe nói thế, sai đến mời. Ưu Ba Cúc Đề tự đè nén không đi.
Lại cứ mời mãi, cuối cùng cũng không theo mệnh. Lúc đó dâm nữ cùng con của vương gia thông dâm. Tham đắm y phục của báu…, lợi hưng nghĩa suy nên nàng ta giết con vương gia đem giấu. Vương gia tìm kiếm được xác nơi nhà dâm nữ, bắt cô đem chặt chân tay, xẻo mũi xẻo tai, đem treo nơi cao, tuy khổ như vậy nhưng chưa mạng chung. Ưu Ba Cúc Đề đi đến chỗ đó.
Dâm nữ nói: Tôi trước kia tướng mạo đoan chánh không chịu gặp nhau, nay hình hài tàn tệ làm sao gặp được?
Ưu bà Cúc Đề đáp: Tôi không tham sắc mà đến nơi đây, vì thương xót mà đến đây thôi. Nhân đó, tuyên thuyết pháp vô thường, thân là bất tịnh khổ, không, vô ngã. Nhất nhất hãy quán sát, đâu có gì đáng nương cậy, người ngu si, vọng sinh nhiễm tưởng. Dâm nữ nghe pháp xong được pháp nhãn tịnh.
Lúc bấy giờ Da Thế Kỳ lại đến nhà cư sĩ xin chàng thiếu niên. Người cha vâng lời đem cho. Ngài dẫn đem về Tinh Xá cho thọ mười giới, năm hai mươi tuổi cho thọ cụ túc, bạch Tứ yết ma xong thì đắc quả A La Hán, chứng tam minh, lục thông đầy đủ, nói năng khéo léo, diễn thuyết hay vô cùng bèn tập hợp mọi người vì chúng thuyết pháp.
Lúc đó Ma Ba Tuần đến ở hội ấy, mưa xuống tiền vàng, mọi người tranh nhau giành lấy không chịu nghe pháp. Ngày thứ hai tập hợp đại chúng, ma bèn mưa hoa để loạn tâm quần chúng.
Đến ngày thứ ba, Ngài lại tập hợp đại chúng, Ma Vương bèn hóa làm một con voi lớn, màu lưu ly xanh, miệng có sáu ngà, trên đầu sáu ngà có bảy ao nước, trong bảy ao nước có bảy hoa sen, trên mỗi hoa sen có bảy ngọc nữ, các ngọc nữ này đều trổi kỹ nhạc, con voi đi bộ bên cạnh. Mọi người chú mắt nhìn, không để ý nghe pháp.
Đến ngày thứ tư, Ngài lại tập hợp đại chúng, Ma Vương lại hóa làm một người con gái, đoan chánh xinh đẹp lạ thường, đứng hầu ở phía sau, mọi người chú mắt nhìn quên cả pháp sự.
Lúc đó Tôn Giả bèn hóa người con gái ấy thành bộ xương trắng, mọi người trông thấy lại chuyên tâm nghe pháp, người đắc đạo rất nhiều. Tôn Giả vốn có một con chó, hằng ngày nó ở đó cũng được nghe pháp, sau đó nó mạng chung, sinh lên Cõi Trời thứ sáu, cùng Ma Ba Tuần, ngồi chung một giường.
Ma Vương suy nghĩ: Trời này đức lớn ngang bằng với ta, từ đâu mất mà sinh đến đây?
Quán sát mới biết là từ thân chó của vị Sa Môn kia nên Ma nghĩ muốn làm nhục. Từ xa trông thấy Tôn Giả đang lúc nhập định, Ma Vương liền cầm một cái mão báu đội lên trên đầu Tôn Giả.
Khi xả định, Tôn Giả cảm thấy trên đầu có cái mão, quán sát mới biết Ma Ba Tuần làm, liền dùng thần lực làm cho ma đến và hóa xác con chó giống như đồ trang sức, bảo ma: Ngươi để cái mão cho ta, thâm tạ ý ngươi, nay ta đem đồ trang sức dùng để tặng đáp lại. Ma Vương nhận xong, bèn trở về Trời, mới thấy là xác con chó chết, trong lòng chán ghét muốn đi báo thù, nhưng dùng hết thần lực không thể làm được. Ma lại đến Trời Đế Thích cầu xin trừ khử bất tịnh.
Đế Thích nói: Người làm việc này, cũng chính là người có thể xả bỏ, sức ta không thể làm được. Ma Vương lại đi hỏi khắp các Trời, cho đến Phạm Thiên, họ cũng đều đáp như lúc ban đầu.
Sự việc không xong, Ma Vương bèn trở về chỗ Tôn Giả thưa: Đức Phật thật là Đại Đức, lòng từ vô biên, các vị Thanh Văn thành thật làm hung kỵ, làm sao dùng thí nghiệm. Ta ngày xưa đem các quân ma mười tám ức vây đánh Bồ Tát, muốn làm bại hoại đạo ấy, do ôm lòng từ bi không lấy làm oán.
Nay ta xúc chạm chút ít, vì sao làm ta khốn đốn như vậy?
Tôn Giả đáp: Lý thật như vậy, Đức Phật hơn ta gấp ngàn vạn ức lần, không thể ví dụ, như núi Tu Di sánh với hạt cải, như nước biển lớn với dấu chân trâu, như Sư Tử vương hơn con dã can, hình tướng lớn nhỏ thật không bì kịp.
Tôn Giả nói với ma: Ta sinh vào thời mạt pháp không gặp Như Lai, nghe ngươi có thể hóa làm Phật.
Hãy thử hiện một lần, ta muốn trông thấy.
Ma Vương đáp: Nay tôi hóa hiện, xin Ngài cẩn thận chớ làm lễ.
Đáp: Ta không đảnh lễ đâu.
Lúc đó Ma Vương hóa làm Đức Phật thân cao trượng sáu, màu vàng tía, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chói lọi hơn cả mặt trời, mặt trăng. Tôn Giả vui mừng bèn cúi đầu làm lễ.
Ma Vương hiện lại nguyên hình, nói với Tôn Giả: Đã bảo Ngài không làm lễ, tại sao lại đảnh lễ?
Tôn Giả đáp: Ta tự lễ Phật không phải lễ nhà ngươi.
Ma lại thưa: Cúi mong Ngài thương xót, trừ bỏ thây chó.
Tôn Giả nói: Người khởi tâm từ ủng hộ quần sinh, thì thây chó biến thành đồ trang sức. Nếu ôm lòng ác thì nó biến thành thây chó trở lại. Vì thế ma rất sợ thường phát khởi lòng lành. Bấy giờ Tôn Giả, sau khi thành đạo, hóa độ chúng sinh người đắc Tứ quả, mỗi người một thẻ dài bốn tấc. Thẻ như vậy đầy cả một gian phòng chất cao sáu trượng, ngang rộng cũng như vậy.
Lúc đó mọi người hỏi Tôn Giả rằng: Tôn Giả phước thật là rộng lớn, hóa độ quần sinh không thể tính kể.
Tôn Giả nói: Khi ta còn làm kiếp súc sinh cũng hóa độ chúng sinh, khiến được Thánh quả, huống nữa là ngày nay.
Chúng hội bạch: Thưa Tôn Giả, kiếp trước Ngài hóa độ chúng sinh như thế nào, xin nói cho chúng con được biết.
Tôn Giả nói: Ở thời quá khứ có nước Ba La Nại, trong nước có một ngọn núi tiên, năm trăm vị Bích Chi Phật trụ trong núi đó. Bấy giờ có con khỉ hằng ngày đến cúng dường chư Bích Chi Phật. Sau khi chư Bích Chi Phật nhập Niết Bàn hết thì lại có năm trăm Phạm Chí tiếp tục đến ở trong núi đó.
Những vị Phạm Chí, có vị hoặc thờ mặt trời, mặt trăng, có vị thờ lửa. Người thờ mặt trời, mặt trăng thì vênh chân hướng về nó. Người thờ lửa thì sáng tối đốt lửa. Bấy giờ con khỉ kia thấy những người ấy vểnh chân thì nắm lôi kéo, thấy người đốt lửa thì nó dập tắt. Lúc đó con khỉ ngồi ngay thẳng suy nghĩ.
Các Phạm Chí trông thấy tự nói rằng: Con khỉ này bắt chước chúng ta biểu thị uy nghi.
Con khỉ ngồi ngay thẳng tầm sát chân lý, tâm ý khai giải, đắc quả Bích Chi Phật.
Nói đến đây Tôn Giả nhắc lại: Con khỉ đó chính là tiền thân của ta vậy.
Chúng hội lại bạch: Do nhân duyên gì mà Ngài bị thọ thân khỉ?
Tôn Giả nói: Về thuở quá khứ chín mươi mốt kiếp, có Đức Phật Tỳ Bà Thi ra đời, các Tỳ Kheo trụ ở trong núi tiên của nước Ba La Nại.
Khi đó có một vị Ứng chân leo lên đỉnh núi đi nhẹ hàng mau chóng, một đạo nhân trẻ nói: Ông đó đi mau chóng nhẹ nhàng giống như khỉ vậy. Do nhân duyên đó trong năm trăm kiếp sinh ra thường làm khỉ. Thế cho nên bốn chúng nên tự giữ miệng chớ lời hung ác.
Khi Tôn Giả Ưu Ba Cúc Đề nói đến đây, tất cả chúng hội có người đắc quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, có người trồng căn lành Duyên Giác, có người phát tâm đại thừa bất thoái, không thể tính kể, tín thọ Ngài chỉ giáo hoan hỷ phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bát Danh Phổ Mật đà La Ni
Phật Thuyết Kinh đại Minh độ Kinh đạo Hành Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Mười Ba - Phẩm Phân Biệt
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Năm Mươi Chín - Phẩm Ma Ni Lâu đà
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Tám - Phẩm Uế - Kinh Tỳ Kheo Thỉnh
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Bốn - Phẩm Bảy - Phẩm địa Ngục