Phật Thuyết Kinh Lục độ Tập - Chương Sáu - Minh độ Vô Cực Trí Tuệ Ba La Mật - Kinh Số Tám Mươi Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Khương Tăng Hội, Đời Ngô

PHẬT THUYẾT KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Khương Tăng Hội, Đời Ngô   

CHƯƠNG SÁU

MINH ĐỘ VÔ CỰC  

TRÍ TUỆ BA LA MẬT

KINH SỐ TÁM MƯƠI BA  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ, với một ngàn hai trăm vị Tỳ Kheo, một vạn vị Bồ Tát cùng an tọa.

Đệ tử thứ nhất là Thu Lộ Tử, đến trước Đức Phật cúi đầu quỳ gốì, bạch: Xa Nặc từ kiếp xưa có công sức gì mà khi Bồ Tát ở nhà sẽ làm Phi hành Hoàng Đế, lại khuyên bỏ nước vào núi học đạo, tự chứng đắc quả vị Phật, cứu vớt chúng sinh, công đức vòi vọi, đến cõi Diệt Độ?

Nguyện xin Đức Thế Tôn nói rõ nguồn gốc.

Đức Phật khen ngợi: Lành thay, lành thay! Thu Tử đã hỏi hay lắm! Công đức của Xa Nặc nhiều đời nhiều kiếp thật không thể lường hết. Các ông hãy lắng nghé, ta sẽ nói ra đây.

Thưa: Xin vâng!

Đức Phật nói: Thuở xưa ta làm Bồ Tát tại nước Ni Ha Biến. Quốc Vương nước ấy nghe lời người bày vẽ, hoặc cho tu đạo thì được lên Trời hoặc thờ thần thì được lên Trời. Nhà Vua từ thuở nhỏ đến giờ thường ước nguyện được lên Trời, nhưng chưa biết cách. Nước ấy có hơn bốn vạn Phạm Chí.

Nhà Vua đòi họ đến gặp, hỏi: Ta muốn lên Trời thì phải dùng phương cách nào?

Người Phạm Chí lớn tuổi nhất tâu: Lành thay câu hỏi ấy!

Nhà Vua muôn đem thân này lên Trời chăng?

Có đem hồn đi không?

Vua nói: Ta muốn ngồi như vậy mà được lên Trời ngay.

Đạo Sĩ nói: Phải lập đàn cúng tế Trời thần thật lớn mới được. Nhà Vua mừng vô cùng, truyền lấy hai ngàn cân vàng bạc ban cho Phạm Chí được của báu trở về nhà cùng nhau vui chơi.

Của báu hết, chúng bàn với nhau: Chúng ta sẽ khiến Vua chọn lấy đồng nam, đồng nữ, đẹp đẽ hơn người, mỗi loại một trăm đứa, voi, ngựa, các súc vật khác mỗi thứ cùng trăm con, trước đãi chúng ta ăn uống tiếp theo thì giết người và súc vật, lấy xương thịt chúng để làm bệ lên Trời. Bàn rồi thì đem việc này tâu lên Vua.

Vua nói: Rất tốt.

Nhà Vua liền ra lệnh cho quan ở ngoài mau chóng sắm sửa đầy đủ. Tất cả những người, vật được chọn đều đem tống giam vào ngục, khiến đông đảo người khóc than đầy đường.

Người trong nước đều nói: Làm Vua mà bỏ lời dạy chân chánh của Đức Phật, lại sùng chuộng yêu tà thì đó là nguyên nhân mất nước.

Đám Phạm Chí lại tâu: Nếu như giết hết các mạng ấy mà Nhà Vua không được lên Trời, thì chúng ta bị phanh thây bêu nơi chợ, việc ấy chắc chắn thôi!

Rồi chúng lại bàn mưu với nhau: Trong Hương Sơn có người kỹ nữ là Vua Trời, tên là Tợ Nhân Hình Thần, Thần Thánh cũng khó bắt được. Chúng ta nên khiến Nhà Vua cầu tìm người ấy, nếu tìm không được thì mọi việc đều xong, chúng ta mới khỏi tội.

Lại đến chỗ Vua tâu: Trong núi Hương có nữ nhạc của Trời, phải lấy được máu người ấy hợp với người và súc vật dùng làm cái bệ thì Ngài mới lên Trời được.

Nhà Vua mừng rỡ nói: Sao không nói sớm, nay đã bốn tháng trôi qua rồi mới nói?

Thưa: Pháp thuật của chúng tôi từ gốc đến ngọn là thế. Xin Nhà Vua lệnh cho dân chúng trong nước tụ hội lại, hứa ban thưởng lớn, rượu nhạc đầy đủ cho ai có thể tìm được Thần Nữ.

Bấy giờ dân chúng có người biết, tâu: Trong núi thứ bảy có hai Đạo Sĩ, một tên là Xà Lê, một tên là Ưu Bôn, biết chỗ ở của Thần Nữ ấy.

Vua bảo: Hãy gọi họ đến. Sứ giả vâng mệnh ra đi, vài ngày liền đem Đạo Sĩ về.

Nhà Vua vui vẻ bày tiệc, rượu nhạc suốt bảy ngày, rồi nói: Các ngươi vì ta bắt được Thần Nữ về đây, ta lên Trời thì sẽ đem đất nước này cho các ngươi.

Họ đáp: Chúng tôi tất nhiên là hết sức cố gắng. Họ trở về chỗ, tìm kiếm hơn hai tháng Trời, trải qua bảy lớp núi mới đến được Hương Sơn. Họ thấy một hồ nước lớn, dọc ngang ba chục dặm, đất bằng bên hồ có ngôi thành báu đồ sộ nguy nga, dài, rộng, cao, mỗi chiều tám chục dặm. Cây báu vây quanh thành rực rỡ sáng cả nước.

Trong hồ đầy hoa sen, mỗi hoa có đến ngàn cánh, cánh có năm màu, cùng sáng rỡ lấp lánh, nhiều thứ chim lạ líu lo ca hót. Cửa thành bảy lớp, trong thành lầu, gác, cung điện san sát nhau, cờ phướn lộng lẫy, chuông, linh rung năm âm vang vọng, Vua Trời ở trong Cung cùng ca nữ vui chơi.

Sau bảy ngày, Đế Thích ra ngoài đi dạo, đến hồ tắm, vui thích đã xong, phải về lên Trời. Bên gốc cây cạnh hồ có vị Phạm Chí Thánh, trong ngoài không dơ, đã được sự sáng suốt của năm thông.

Hai Đạo Sĩ tiến đến, cúi đầu thưa: Nhạc này tuyệt diệu, đem làm vui cho ai vậy?

Đáp: Đầu Ma Vương nữ cùng hơn một ngàn người khác du chơi ở đây. Họ mới vừa đến, các ngươi hãy sớm lui đi.

Hai Đạo Sĩ lui về tìm chỗ ẩn thân, bàn với nhau: Vị Phạm Chí này đạo đức thiêng linh, chúng ta sẽ dùng cách gì để đến gần Thiên Nữ đây?

Chỉ có cách phải dùng đạo quỷ, kết cỏ ếm chú, rồi đem ném vào hồ nước, khiến thân vị Phạm Chí chồng lên mình Thiên Nữ thì thiêng linh sẽ tiêu tan. Liền kết cỏ ném vào nước, dùng đạo yêu chú yếm. Đế Thích thoát khỏi quay về Trời, Chư Thiên cũng vậy, chỉ có Thiên Nữ không thể bay lên được. Hai Đạo Sĩ nhảy vào hồ cởi áo trói Thiên Nữ lại.

Thiên Nữ nói: Các ngươi định làm gì ta?

Hai Đạo Sĩ đáp như đã nói ở trên. Dùng tre bẻ để ghi tính thì đi suốt bảy ngày mới về tới Vương Quốc. Họ đến thẳng Vương Cung, tự nhiên thấy sọ.

Thấy được Thiên Nữ, Nhà Vua mừng rỡ, bày tiệc ăn uống, ủy lạo các Đạo Sĩ, nói: Ta được lên Trời thì sẽ đem nước này cho các người. Người con đầu của Vua tên là Nan La Thi, làm Vua ở một nước khác, có Thái Tử tên là Tu La, con người vợ trước, nhân từ, hòa nhã, thông minh thấu rõ cả, thấy trước việc chưa xảy ra của chúng sinh ở đời, không chỗ sâu xa nào mà không thấy.

Không cái nhỏ nhặt nào mà không đạt, hạnh cao sáu độ không rời khỏi lòng, tự thề cầu cho được quả Như Lai, Vô Sở Trước, Chánh Chân Giác Đạo, Pháp Ngự, Nhân Thiên Sư, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, đạt đến gốc không.

Vua nói: Ta sắp lên Trời, gọi hoàng tôn đến để từ giã. Hoàng tôn đến, cúi đầu lạy, nhận lời từ giã xong, lui lại ghế ngồi.

Vua hỏi: Cha mẹ con cùng dân chúng an ổn cả chứ?

Hoàng tôn đáp: Nhờ ân nhuần thấm của Vua nên khắp chốn đều yên ổn.

Rồi cháu Vua nói: Nếu ta không cầu xin Tiên Nữ về làm phi thì Vua ắt giết đi!

Có người nghe được đem tâu, Nhà Vua nói: Ta sẽ dùng máu của Thiên Nữ để làm bệ lên Trời. Hoàng tôn liền tuyệt thực, lui về nghĩ ngợi, lòng không vui. Vua sợ cháu chết, liền đem Thiên Nữ cho làm phi. Trong ngoài mừng rỡ, các hoạn đều tan hết.

Sau bốn tháng, các Phạm Chí lại tâu: Bây giờ phải đào hố để giết các súc sinh, lấp đầy hố, rồi lấy máu Thần Nữ bôi lên miệng hố, chọn ngày tốt làm lễ tế Trời.

Nhà Vua nói: Hay thay! Rồi truyền lệnh các người già cả trong nước, cùng quan, dân phải tham dự cuộc tế lễ ấy.

Hoàng tôn nghe được việc đó, bùi ngùi không vui, gạn hỏi Phạm Chí: Phép thuật cúng tế này xuất phát từ Thánh Điển nào?

Đáp: Phàm làm việc cúng tế như vậy sẽ được lên Trời.

Hoàng tôn vạch ra: Hễ giết là hại mạng chúng sinh. Hại mạng chúng sinh là đứng đầu trong các tội nghịch ác, họa ấy không cùng, hồn linh chuyển hóa lại hiềm oán nhau, dùng gươm độc giết hại nhau, đời đời không dứt, chết phải vào Địa Ngục Thái Sơn, thiêu nấu, băm vằm chịu đủ các thứ độc hại. 

Rồi được ra thì hoặc làm súc sinh lại liền bị chết về dao chém, hoặc về sau được làm người thì phải bị họa phân thây, đều do giết hại mà ra cả.

Há có chuyện làm bạo ngược mà được lên Trời sao?

Phạm Chí đáp: Ngươi tuổi mới lớn, trí nghĩ tới đâu mà bắt bẻ chúng ta?

Hoàng tôn nói: Thọ mạng đời trước của ta, năm trăm đời liền được sinh ra trong nhà Phạm Chí, rành Kinh Sách đạo của ngươi, lấy thanh chân làm đầu, các ngươi xảo dối, há hợp với diệu ý của Kinh?

Phạm Chí nói: Ngươi biết đạo của ta sao không trình bày ra?

Hoàng Tôn nói rõ: Nguyên tắc lớn của Phạm Chí là cõi Thánh hết mực thanh tịnh, mà các ngươi thì dơ đục, tàn khốc, tham ăn, dối đem cúng tế tà vạy, giết người hại vật, uống rượu dâm loạn, dối Trời khổ dân, khiến dân bỏ Phật, trái pháp xa hiền, chẳng bà con mà đem hết của cải cúng cho quỷ, còn người thân thì đói rét, há hợp với Thánh ý, cao hạnh của Sa Môn sao?

Đám Phạm Chí hổ thẹn cúi đầu mà lui.

Hoàng Tôn liền vì Vua ông trình bày lời tin chí thành của Đấng Vô Thượng Chánh Chân Tối Chánh Giác: Hễ muốn lên Trời phải quy y ba ngôi báu, hiểu rõ về bốn vô thường, dứt hết tham lam keo kiệt, nuôi chí thanh tịnh, quên mình cứu người, ân nhuần khắp chúng sinh. Đó là một.

Thương xót mọi sinh mạng, rộng lòng mình để cứu người, chí hằng biết đủ, không phải của mình thì không nhận lấy, giữ trinh không dâm dật, tin không lừa dối, rượu là loạn độc làm khô nát đạo hiếu, tuân giữ mười đức, dùng chánh đạo dắt dẫn người thân. Đó là hai.

Nhịn nhục đối với chúng sinh, thương xót kẻ cuồng say, độc tới buồn đi, cứu mà không hại, đem ba ngôi báu để dẫn dụ, hiểu được rồi liền giúp vui, thương nuôi cùng giúp đỡ, ân ngang Trời Đất. Đó là ba.

Tinh Tấn luyện chí, dốc cầu theo hạnh cao. Đó là bốn.

Bỏ tà dứt cấu nhiễm, chí lặng như hư không. Đó là năm.

Học rộng, không gì ngăn che mong đạt đến nhất thiết trí. Đó là sáu.

Ôm giữ đức rộng lớn này, trước sau.

Không lầm lỗi, cầu làm bậc Pháp Vương Ba Cõi thì có thể được lên Trời, khó gì?

Còn trái với lời dạy từ bi của Đức Phật, chuộng sự hung ác, giết hại mạng chúng sinh, nhạc dâm, tế tà, sống thì Trời bỏ, chết phải vào ba đường dữ, lại giết hại lẫn nhau, mang họa vô cùng. Đem ác dữ ấy mà mong lên Trời, ví như người làm trái lệnh Vua mà muốn được ngôi vị cao.

Vua nói: Hay thay lời tin ấy!

Vua bèn mở ngục đại xá, đuổi hết các yêu tà, đem của báu cả nước sai cháu làm phước đức. Hoàng Tôn được của báu, đều đem chia cho người nghèo, bố thí suốt bảy ngày, không kẻ thiếu thốn nào là không no đủ. 

Sau khi Bố Thí, lại khuyên dân giữ giới, mọi người đều cảm nhận ân nhuần, không ai là không tuân theo. Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều khen hay, làm mưa nhiều thứ báu, lụa là, lúa gạo, hoa màu. Các nước lân cận ngưỡng mộ đức hóa theo về như các dòng sông chảy về biển cả. 

Hoàng tôn từ giã người thân, đem nàng phi lui về. Về đến nước, Thái Tử chỉ lo đóng cửa, bỏ việc, cùng nàng vui chơi.

Quần Thần tâu lên Vua: Không bỏ người phi ấy thì việc nước sẽ hư nát.

Vua cha nói: Vợ là do ông nội ban cho, đâu được bỏ đi! Bèn triệu Thái Tử đến để giam lại, người phi nghe thế nên hổ thẹn, liền bay về chỗ ở cũ, nơi núi thứ bảy.

Thấy Ưu Bôn và các người khác bà dặn: Chồng ta có đến thì hãy vì ta mà đuổi đi. Rồi để lại chiếc nhẫn vàng làm tin. Vua cha nghe nàng phi đi rồi mới cho Thái Tử về nước. Thái Tử không thấy người phi của mình, nên buồn bã rơi nước mắt.

Thần giữ cung nói: Thái Tử không nên thương tiếc, ta chỉ cho đường đi. Người phi đang ở nơi núi thứ bảy, hãy mau đến tìm cho kịp. Hoàng Tôn nghe lời, liền mặc áo ngọc, mang kiếm, cầm cung đi ngay. Áo báu chiếu sáng đến bốn mươi dặm. Hôm đến núi thứ bảy, thấy vợ bẻ cành cây quăng xuống đất để làm dấu cho biết.

Thái Tử gặp trước hai Đạo Sĩ, hỏi: Người phi của ta có đi qua đây không?

Đáp: Có.

Rồi họ đem nhẫn vàng trao cho, cùng đi theo giúp, lấy cây bắc cầu đi qua sông nhỏ, đến núi thứ tám, thấy Phạm Chí đạt được bốn Thiền, liền gieo năm vóc xuống đất, cúi đầu làm lễ, thưa: Đạo Sĩ có thấy vợ tôi đi qua đây chăng?

Đáp: Có đi qua đây!

Hãy ngồi đây giây lát, tôi chỉ chỗ cho. Bây giờ Trời Đế Thích hóa làm con vượn lớn, oai linh chấn động cả núi rừng. Hoàng Tôn rất sợ.

Phạm Chí nói: Đừng sợ, nó đến cúng dường đó. Con vượn thấy ba Đạo Sĩ thì nghi ngại nên đứng lại, không dám bước tới.

Phạm Chí gọi: Đến đây. Vượn liền đi đến, lấy trái cây cúng dường.

Phạm Chí nhận trái cây, rồi bốn người cùng ăn, gọi vượn bảo: Đem ba người này đến chỗ nàng Tợ Nhân Hình Thần.

Vượn hỏi: Đây là người nào mà khiến lên Trời vậy?

Phạm Chí nói: Thái Tử của Quốc Vương là bậc đứng đầu hàng Khai Sĩ, sẽ là Đấng Như Lai Vô sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư, chúng sinh sẽ nhờ ân lớn ấy mà được trở về với gốc không.

Vượn ca ngợi: Lành thay, bậc Khai sĩ! Nếu Ngài được thành Phật, tôi xin làm ngựa cho Ngài. Ưu Bôn hai người, một người nguyện làm nô bộc, một người nguyện làm La Hán.

Vị Khai sĩ nói: Rất tốt!

Rồi tất cả cùng lên Trời.

Trên đường đi có năm trăm vị Duyên Giác, đều đến cúi lạy, sai vượn trở lại lấy hoa, tung lên cúng dường Chư Phật, nguyện: Mong tôi chóng thành Bậc Chánh Giác, dẫn dắt chúng sinh, diệt hết sinh tử, thần thức trở về với gốc không. Ba người lại phát nguyện như trước, xin đều làm Phật, cúi lạy mà đi. Đến ngoài cửa thành của Tợ Nhân Hình Thần, vượn cúi đầu xin lui. Ba người đều ngồi nghỉ.

Bấy giờ có người áo xanh đi ra lấy nước.

Vị Khai sĩ hỏi: Chị lấy nước làm gì?

Đáp: Lấy nước cho Vương Nữ tắm. Vị Khai Sĩ cởi chiếc nhẫn bỏ vào thùng nước ấy.

Thiên Nữ thấy chiếc nhẫn thì dừng không tắm, thưa với cha mẹ: Chồng con đi tìm, nay đã đến đây!

Người cha tên Đầu Ma, vui mừng vội ra gặp nhau. Khai Sĩ cúi đầu theo lễ của người rể, còn hai Đạo Sĩ thì cúi đầu lễ rồi lui. Vua mời Khai Sĩ vào trong, tay dắt con gái trao cho, chung quanh thị nữ có hơn ngàn người, hòa nhạc Trời vui thích.

Lưu lại nơi đó bảy năm, lòng nhớ ân sinh dưỡng của cha mẹ, vị Khai Sĩ nghẹn ngào nói lời từ biệt xin trở về nước.

Thiên Vương nói: Tất cả đất nước này, nay ta đem giao phó cho con, làm sao mà con đành ra đi?

Khai sĩ lại nói như trước.

Vua bảo: Hãy lưu lại đây thêm bảy ngày nữa để tận hưởng vui thú với nhau.

Sau bảy ngày, có vị Đại Thần Vương đến chỗ Vua Trời chúc mừng: Con gái của Vua đã về, lại được người chồng Thánh.

Vua Trời nói: Con gái hèn mọn của ta được người chồng hùng Thánh, người ấy nay lại nhớ về người thân sinh dưỡng, vậy phiền ông lo việc tiễn đưa. Quỷ Vương kính vâng, rồi lấy báu Trời làm cung điện, đền đài bảy tầng, các vật báu, nhạc Trời, trên đời ít thấy. Quỷ Vương tay nâng, đưa về nước cũ, xong cúi đầu chào lui đi.

Khai Sĩ gặp lại cha mẹ, lời thành hỏi thăm đầy đủ Vua ông vui vẻ truyền ngôi. Thiên Nữ, Quỷ, Rồng không ai là không khen ngợi. Thái Tử đại xá các tội, đem hết của nước bố thí cho dân chúng khắp bốn phương và đến cả mọi chúng sinh, đều giúp những người bần cùng, thiếu thốn, thỏa mãn theo lời cầu xin của họ.

Chúng sinh mừng rỡ, không ai là không ca ngợi, khen Phật Giáo hóa theo nẻo nhân, ân thấm nhuần hơn cả Trời đất, tám phương chuộng đức kéo nhau vào đất nước, như con thơ đến nương nhờ mẹ hiền. Vua ông sau khi mạng chung, liền được sinh lên Trời.

Đức Phật bảo Tôn Giả Thu Lộ Tử: Hoàng tôn ấy là thân ta, Phạm Chí chứng được bôn Thiền là Thu Lộ Tử, Ưu Bôn là Mục Liên, Xà Lê là Xa Nặc, Trời Đế Thích hóa làm vượn ấy nay là Kiền Đức ngựa Kiền Trắc, Vua cha là Ca Diếp, Vua ông nay là Vua Bạch Tịnh, mẹ là Xá Diệu mẹ ta, vợ là Câu Di.

Bồ Tát nhiều đời đem lòng từ với bốn tâm rộng lớn, cùng sáu hạnh độ vô cực để cứu độ chúng sinh, khó mà tính kể xiết. Đức Phật thuyết giảng xong, các vị Bồ Tát, bốn chúng đệ tử, các vị Trời, Rồng, Quỷ, Thần và Thần Chất Lượng, không ai là không hoan hỷ, làm lễ lui ra.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần