Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội - Phần Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
PHẬT THUYẾT
KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM MUỘI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
PHẦN TÁM
Người phân biệt nơi căn
Thì không dùng Thánh Đạo.
Với các căn vô hạn
Thể ngoan không, vô ký
Muốn mong vui Niết Bàn
Phải tu nghiệp Thánh Đạo.
Diễn thuyết bốn niệm xứ
Ngu bảo thân chứng mạn
Thân chứng không ngã mạn
Vì hay diệt các mạn.
Diễn thuyết về bốn thiền
Ngu bảo đắc thiền hành
Người diệt mê không mạn
Nhờ tuệ quán đoạn mạn.
Diễn thuyết bốn Chân Đế
Kẻ ngu bảo thấy đế
Thấy thật thì không mạn
Thế Tôn nói như vậy.
Tuy đọc hết các Kinh
Ỷ đa văn, hủy giới
Đa văn không thể cứu
Phá giới khổ địa ngục,
Tự thị việc trì giới
Mà không học đa văn
Phước báo trì giới hết
Trở lại thọ các khổ,
Đa văn cùng trì giới
Cả hai không ỷ lại.
Khinh mạn người phước mỏng
Do đó sinh các khổ
Mạn là gốc các khổ
Các Đạo Sư đã nói
Có mạn khổ tăng trưởng
Lìa mạn khổ liền diệt.
Đời tuy tu tam muội
Mà không lìa ngã tưởng
Lỗi lầm lại khởi lên
Giống như Ưu Điệt Ca.
Nếu tu sự vô ngã
Trong đó sinh vui mừng
Là nhân vui Niết Bàn
Chẳng do pháp thế gian.
Như bị lũ giặc vây
Vì sống, muốn chạy trốn
Không chân, không thể chạy
Liền bị giặc giết hại.
Kẻ si phá giới vậy
Muốn ra khỏi thế gian
Không giới, không thể đi
Bị lão, bệnh, tử giết.
Như giặc mạnh cầm đao
Cướp giật hại khắp nơi
Phiền não cũng như vậy
Hại căn lành chúng sinh.
Nhiều người nói ấm không
Không biết ấm vô ngã
Nếu hỏi ấm có không
Nhăn mày, giận đối đáp.
Nếu biết ấm vô ngã
Nghe chửi, tâm không giận
Mê hoặc buộc, thuộc ma
Ngộ không, không phẫn nộ.
Như người bệnh, thân đau
Nhiều năm khổ bức não
Bệnh này qua nhiều năm
Muốn tìm thuốc chữa lành.
Người ấy hỏi nhiều nơi
Liền gặp được thầy hay
Thầy thương cho thuốc tốt
Bảo uống, sẽ lành bệnh.
Người ấy được thuốc hay
Không uống, bệnh không lành
Không phải lỗi thầy thuốc
Nên biết lỗi người bệnh.
Nơi pháp này xuất gia
Đọc tụng đạo phẩm giáo
Nói và làm không giống
Làm sao được giải thoát?
Thể tánh các pháp không
Con Phật quán việc ấy
Tất cả hữu đều không
Ngoại đạo không hề có.
Trí ngu không tranh nhau
Dũng mãnh nên lìa bỏ
Bị mắng không trả thù
Pháp ngu ngươi chớ ghét.
Trí, không ngu qua lại
Khéo biết tánh huân tập
Tuy lại cùng thân nhau
Sau trở thành oán ghét.
Trí không thân với ngu
Biết chí họ không bền
Thể tánh tự phá hoại
Đừng làm bạn với ngu.
Nếu nghe lời như pháp
Người hủy giới không vui
Tự nhiên khởi sân hận
Nên biết là người ngu.
Người ngu hợp người ngu
Như phân trộn với phân
Trí với trí cùng ở
Như hợp hai đề hồ.
Không xét lỗi thế gian
Không tin vào nhân quả
Không tin lời Phật dạy
Ở đời bị xa lìa.
Bần cùng không của cải
Không sống, cầu xuất gia
Đã xuất gia pháp ta
Lại tham trước y, bát,
Họ gần ác tri thức
Phá hủy cấm giới ta.
Không tự quán việc mình
Trong tâm không an trú
Ngày đêm sống phi pháp
Làm ác không biết chán.
Thân tâm luôn phóng dật
Miệng thường nói lời thô
Luôn rình mò lỗi người
Thấy rồi nói người khác.
Tự che lỗi của mình
Là tướng rất ngu si
Người ngu ham ăn uống
Không thể biết độ lượng.
Nhờ Phật được ăn uống
Vẫn không tâm báo đền
Được món ăn thượng diệu
Không đúng với pháp ấy
Ngược lại ăn bị hại
Như voi ăn sen bùn.
Tất cả món thượng vị
Người trí tuy ăn vào
Căn vắng lặng không tham
Chọn món ăn như pháp.
Tuy có người trí sáng
Hỏi kẻ ngu đâu đến?
Không thân luyến với họ
Chỉ khởi lòng xót thương.
Người trí lợi kẻ ngu
Kẻ ngu làm suy tổn
Ta thấy lỗi này rồi
Như nai ở chỗ vắng.
Người trí thấy lỗi này
Không ở chung với ngu
Nếu lui tới kẻ ngu
Mất Trời huống Bồ Đề.
Người trí thường từ bi
Từ, bi hợp với hỷ
Thường xả tất cả hữu
Tu định, chứng Bồ Đề.
Ngộ đạo, trừ lo sợ
Thấy người già chết khổ
Nên khởi lòng xót thương
Nói lời hợp chân nghĩa.
Nếu người biết Phật Pháp
Lìa ngôn thuyết Thánh Đế
Nếu ai nghe pháp này
Lìa tham thực, Thánh thương.
Này Đồng Tử! Vì nghĩa lý đó nên muốn được thành tựu hạnh kiên cố, Bồ Tát nên học như vậy.
Vì sao?
Này Đồng Tử! Nhờ hạnh kiên cố nên Bồ Tát đắc quả vị Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác không khó khăn, huống gì là tam muội này vậy.
Bấy giờ Đồng Tử Nguyệt Quang bạch Phật: Hy hữu thay Thế Tôn!
Như Lai, Bậc Ứng Chánh Biến Tri đã khéo nói về hạnh kiên cố này để nhập vào pháp tam muội ấy. Ngài đã khéo nói, khéo kiến lập tất cả sở học Bồ Tát. Đó chính là tất cả hành xứ của Như Lai, không phải là địa vị của Thanh Văn, Bích Chi Phật làm được, huống gì là ngoại đạo!
Bạch Thế Tôn! Nay con sẽ trụ hạnh kiên cố này.
Vì sao?
Vì con muốn sở học như Phật. Nay con muốn học vì con muốn biết quả vị Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác ấy. Con muốn phá hoại Ma Ba Tuần và quyến thuộc của chúng. Con muốn giải thoát tất cả khổ cho chúng sinh. Cúi mong Đức Như Lai và Tỳ Kheo tăng cùng các quyến thuộc chứng minh, chấp nhận sự thỉnh cầu của con, là vì thương xót con.
Bấy giờ Đức Như Lai và Tỳ Kheo Tăng im lặng chấp nhận. Đồng Tử Nguyệt Quang thỉnh Phật và Tỳ Kheo Tăng sáng ngày mai đến thọ thực và được Phật chấp nhận.
Bấy giờ Đồng Tử Nguyệt Quang đã được Đức Như Lai chấp nhận sự cúng dường nên vui mừng khôn xiết, hạnh sâu xa, liền từ tòa đứng dậy, bày áo vai bên phải, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi cáo từ ra về.
Bấy giờ Đồng Tử Nguyệt Quang hướng về thành Vương Xá để trở về nhà mình. Về đến nhà thì ngay đêm ấy liền chuẩn bị các thứ ẩm thực thượng vị nhiều vô số. Tại thành Vương Xá, nơi nơi đều treo lụa năm màu, rải các loại hoa, dựng tràng phướn lọng, đốt các hương thơm, bố thí các mùng màn, quét sạch đường sá, vứt bỏ ngói gạch.
Tại ngã tư đường rưới nước làm cho sạch sẽ, rải tung bột chiên đàn và các loại quý báu khắp nơi. Lại tung các loại hoa, các thứ hoa báu xen kẻ trên mặt đất giống như hình vẽ. Lại dùng vô lượng vật dụng chạm trổ, trang nghiêm các nẻo đường.
Trong thành, khắp nơi đều có hoa Ưu Bát La, hoa Câu Vật Đà, hoa Bát Đầu Ma, hoa Phân Đà Lợi. Ở trong nhà toàn dùng chiên đàn ngưu đầu rải quanh, dùng các thứ trang nghiêm, giăng các trướng báu. Vì Đức Phật Thế Tôn mà Đồng Tử bày những món ăn thượng vị.
Khi Đồng Tử làm những việc trang nghiêm thành quách, đường sá, nhà cửa như vậy, bày các vật cúng dường suốt đêm đầy đủ đến lúc sáng sớm, cùng với tám mươi na do tha Bồ Tát, mà Bồ Tát A Dật Đa làm thượng thủ.
Các vị ấy là Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Hương Thượng, Bồ Tát Bảo Tràng, Bồ Tát Man Thắng, Đồng Tử Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Dũng Kiện Quân, Bồ Tát Diệu Tý, Bồ Tát Bảo Hoa, Bồ Tát Bất Hư Hiện.
Các Đại Bồ Tát như vậy đối với các Bồ Tát khác làm bậc Thượng thủ, cùng các chúng Đại Bồ Tát như vậy, vây quanh trước sau, ra khỏi đại thành Vương Xá, đến chỗ Đức Như Lai, sửa lại y phục, đầu mặt đảnh lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đã đến giờ thọ thực, trai soạn đã dọn xong, mong Thế Tôn hạ cố vào thành Vương Xá đến nhà con, vì lòng xót thương mà thọ nhận sự cúng dường của con.
Bấy giờ Đức Thế Tôn, trước đó đã đắp y, cầm bát, cùng Đại Tỳ Kheo cả thảy đến trăm ngàn vị, vô lượng trăm ngàn ức na do tha Đại Bồ Tát, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu la, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… vô lượng trăm ngàn vị Đồng Tử đã thiết lễ cúng dường, cung kính tán thán đại oai lực của Phật, đại thần túc của Phật, đại biến hiện của Phật, đại oai nghi của Phật, đã phóng ra trăm ngàn vạn ức na do tha ánh sáng, tấu lên trăm ngàn loại kỹ nhạc, mưa các thứ hoa Trời.
Vì thọ nhận sự cúng dường của Đồng Tử Nguyệt Quang, nên Đức Phật vào thành Vương Xá.
Đức Phật với sự tích tập vô lượng căn lành từ lâu, nên lúc bàn chân có bánh xe ngàn căm bước vào thành thì hiện ra vô số sự thần biến chưa từng có. Chư Phật Như Lai, nếu khi vào thành, pháp như vậy là đều hiện sự thần biến ấy. Nay các ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà nói.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Tổng Trì Bảo Quang Minh - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Tám Mươi Ba
Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn - Phẩm Hai - Phẩm bí Mật Tâm Mật Ngôn
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Ba Mươi Hai - Phẩm Tỳ Kheo