Phật Thuyết Kinh Như Lai Trí ấn - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Cự, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH NHƯ LAI TRÍ ẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Pháp Cự, Đời Tây Tấn
PHẦN BA
Ở yên tu tĩnh niệm
Tam muội rất sâu xa
Không dùng tướng có được
Cũng chẳng được phương tiện
Liền bỏ nước xuất gia
Mặc pháp phục Xá Na
Buộc niệm ba ngàn năm
Thiền định không ngơi nghỉ.
Trong khoảng thời gian ấy
Phật nói pháp khai ngộ
Sau diệt độ, xây tháp
Sáu vạn bốn ngàn ức
Cúng dường năm trăm lọng
Dùng bảy báu trang nghiêm
Mỗi thứ trăm kiểu nhạc
Thắp tám ngàn ngọn đèn,
Mặc y phục thô xấu
Bảy vạn ba ngàn năm
Thường nói tam muội này
Tâm ấy không ham muốn,
Chẳng đắm lời ngợi khen
Không cầu trí thế gian
Xin ăn không nhận mời
Giữ pháp, trụ vào đó,
Tám vạn ức na do
Trì tịnh giới của Phật
Đều cúng dường như trên
Đầy đủ tam muội này.
Nếu muốn đắc bồ đề
Phải nên học như Phật
Người kính tu Kinh này
Chớ tin luận ngoại đạo.
Đời sau nói hành đạo
Ngược lại, hủy giới cấm
Vì lợi không vì pháp
Tuy đọc chẳng hiểu không
Nói không chẳng trôi chảy
Tà mạng không thanh tịnh
Luận không mà chấp không
Tự nói không nghi đạo.
Bấy giờ Vua Tuệ Khởi
Chính là Phật Di Đà
Ngàn người con của Vua
Là ngàn Phật hiền kiếp.
Lúc cùng Vua xuất gia
Quyến thuộc và đệ tử…
Nay ở trước mặt ta
Là bốn chúng hội này.
Nhớ ức na do Phật
Xuất gia nghe chánh pháp
Nghe liền hay thọ trì
Đắc không chẳng chỗ nương.
Khởi vô lượng phương tiện
Cúng dường các Như Lai
Không đắc tướng bồ đề
Đều do hành chân thật.
Được thấy Phật Nhiên Đăng
Đoạn cầu, được bình đẳng
Lúc ấy, được thọ ký
Vị lai sẽ thành Phật.
Bấy giờ, có người nữ tên Hiền Thủ là đại Phu Nhân của Vua Tần Bà La, lại có Phu Nhân khác tên là Kim Quang Câu Đạt Nữ.
Cả hai từ tòa ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Đức Phật dùng vạt áo đựng hoa bảy báu, mỗi người đem năm trăm gói hoa, rải lên Đức Phật và dùng áo kiếp bối dục có giá trị trăm ngàn, dâng lên Như Lai, rồi thưa: Bạch Thế Tôn! Đối với định này, con tin hiểu thọ trì.
Nếu có người đọc tụng, con sẽ ủng hộ, theo chỗ mong cầu của họ mà cúng dường. Con sẽ đem pháp đại thừa để giáo hóa chúng sinh không tin là không, là bất không. Không chỉ nói suông mà nhất định thọ trì, chắc chắn thực hành như lời nói, không tiếc thân mạng, huống gì của báu để họ cũng sẽ như lời nói dạy dỗ trao truyền nhau.
Lúc đó, tám ngàn cung nữ ở hậu cung của Vua Tần Bà La, sáu vạn Ưu Bà Di ở nước Ma Già Đà đều phát tâm vô thượng bồ đề.
Đối với tam muội này đều sinh tâm tùy thích và phát lời thề: Về sau, ở đời mạt pháp, chúng con sẽ giữ gìn chánh pháp.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết rõ những suy nghĩ trong lòng họ liền mỉm cười, những tia sáng có màu sắc thật tốt đẹp từ miệng Ngài phát ra, chiếu khắp mười phương, rồi trở lại nhập vào đỉnh đầu.
Bấy giờ, Hiền Thủ và Kim Quang sinh tâm kính tin, liền cùng nhau nói kệ tụng:
Thắng nhân tụ đức vô như Phật
Cây, hoa, công đức, Vua, các sao
Lời diệu, vui vẻ theo thứ lớp
Thế Tôn mười lực duyên gì cười?
Mặt tròn như trăng mở mắt đời
Phạm âm thanh tịnh, khắp muốn nghe
Mềm, cứng điều hòa, thân tâm vui
Đấng Hùng Sư Tử vì sao cười?
Hòa, nhẫn, không nói chân chánh
Ứng thanh, tròn đầy, đủ các vị
Thông suốt các hạnh vô lượng nghĩa
Xin công đức tụ, giảng nghĩa cười.
Tám thứ diệu âm đều đầy đủ
Sáu mươi trang nghiêm, tiếng hòa nhã
Hiểu bảy trăm thứ các ngôn âm
Thông đạt nghĩa vị sáu mươi ức.
Tám mươi ức số, âm tương ưng
Mười na do tha tiếng, cũng vậy
Không thể hạng lượng, vô cực tôn
Cúi xin giảng nói, duyên gì cười!
Trong các núi cùng tột không động
Hiểu nghĩa tương ưng, diệt các nghi
Hay dứt các khổ, được an vui
Bảo tụ như thật nói duyên cười
Núi vàng giảng giải bảy xe báu
Giống như hoa, trăng, mọi người thích
Độc bộ, âm thanh như sư tử
Xin nói duyên, phóng quang, mỉm cười
Cao tột ba cõi, sạch ba cấu
Ở vô lượng kiếp, hành thiện, tịch
Ánh sáng cười đầy khắp mười phương
Khéo léo giảng rộng cam lồ môn.
Tiếng cầm, sắt, đồng, bạt, tiêu, địch
Đánh trống, thổi ốc, các diệu âm
Tiếng Khẩn Na La, Ca Lăng Già
Loan, Hồng, Hạc, Câu Sí La, Hót
Bính tiết, không hầu đều trổi vang
Không bằng Như Lai một diệu âm.
Như vậy, chúng mười phương đến hội
Những thứ thấy biết đều không đồng
Xin nói như thật, diệt kiến ái
Trở về nước rồi, mãn các nguyện.
Mỗi mười phương ức chúng, sai đến
Đều vì chánh pháp, tới hội này
Nhân cười ắt sẽ mưa pháp vũ
Giảng Thuyết Pháp gì, khiến mừng vui.
Hiền Thủ và Kim Quang nói kệ này xong, Đức Thế Tôn dùng kệ tụng đáp lại:
Ta nhớ hằng sa kiếp quá khứ
Phật Hiệu Phước Quang, Thế Gian Giải
Phật thọ bảy mươi sáu vạn ức
Số chúng Thanh Văn không hạn lượng.
Có Chuyển Luân Vương tên Tuệ Ngự
Phu Nhân Nguyệt Quán, thứ tên Viêm
Lìa bỏ nhà, thích cầu chánh pháp
Cả một ức năm, luôn giữ gìn.
Sáu mươi vạn ức, ba mươi vạn
Với Chư Phật này, giữ chánh pháp
Ba mươi hằng sa Phật vị lai
Giữ gìn chánh pháp không cắt đứt.
Phật A súc bảo Vua Tuệ Ngự
Các người thường cùng sinh ở đó
Vì duyên giữ pháp, xả thân nữ
Sinh ở nước, vô lượng Cực Lạc.
Những hộ pháp này, cũng sẽ sinh
Pháp sắp muốn diệt làm chỗ trụ
Ắt sinh Cực Lạc hoa ngàn cánh
Tướng tốt trang nghiêm làm con Phật.
Được sinh nơi ấy, được Chánh Giác
Kiếp Vua trang nghiêm, không gai gốc
Ở đó được thành đạo vô thượng
Nắm giữ chánh pháp và Trời, Người
Cõi nước Phật kia, không việc ma
Không nghiệp báo ác, không thai sinh
Ngày có vô lượng Bồ Tát họp
Không có tên Duyên Giác, Thanh Văn.
Không tiếc thân mạng, giữ Phật Đạo
Không vì danh dự mà thoái chuyển
Vì mau thành tựu đạo vô thượng
Lại muốn mau thành tất cả nước.
Các ngươi hòa hợp tin kính Phật
Cung kính, không nương, giữ bồ đề
Khi mạt thế, đại pháp sắp hoại
Không nên theo đó tham lợi dưỡng
Ta ở ức kiếp cho vợ con
Bỏ đầu, mắt, thân, cầu Phật Đạo.
Chẳng pháp vì lợi nói lỗi pháp
Thí chủ keo kiệt, sinh giận ghét
Tám vạn ức người lệ tuôn rơi
Sẽ hộ pháp diệt, nương bồ đề
Động ba ngàn cõi, Trời mưa hoa
Ái kính Kinh này, thọ mạng lớn
Như Cõi Phật đây hằng hà sa…
Vàng đầy ắp, vô lượng kiếp cho.
Nếu có thể tin trí ấn Kinh
Cho hằng sa báu, không thể sánh
Chớ dối trao truyền đạo không vui
Nghe Phật hiếm có, sinh đạo tâm
Nên lần lượt học Kinh Điển này
Hành như lời nói, thành Chánh Giác.
Đồng hoang trì giới cung kính tu
Ba nghiệp với chúng, tưởng như quen
Tu kính sáu hòa, sinh tưởng Phật
Muốn cầu diệu pháp học Kinh này.
Nếu có ghi chép pháp ấn đây
Đọc tụng, giảng dạy vì người nói
Công đức này thân không nghĩ bàn
Phật Tử sẽ sinh nước Cực Lạc.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ở đời vị lai, sẽ có bao nhiêu vị Bồ Tát thọ trì tam muội này?
Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Này Di Lặc! Trong đời vị lai, ít có người thích tin, phần nhiều làm tan mất căn lành, cắt đứt với chánh pháp. Người hành pháp này rất khó, rất khó.
Đức Phật lại bảo Bồ Tát Di Lặc: Nếu ta nói hết những hạnh không tương ưng của Bồ Tát, thì suốt đến đời vị lai, cũng không thể cùng tận.
Bồ Tát Di Lặc thưa: Bạch Thế Tôn! Cúi xin nói điều đó! Cúi xin nói điều đó! Nên thương xót chúng con, để trong đời vị lai, có người tu tập hạnh chân thật, được nghe Kinh này, theo như lời nói mà tu hành sẽ ứng với đạo vô thượng.
Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Thật đúng như lời ông nói, nếu có Bồ Tát nào, đã ở chỗ trăm Đức Phật, phát tâm bồ đề, trồng các căn lành, nhưng ở đời vị lai, quên mất đạo tâm!
Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát, ở chỗ ngàn Đức Phật, đã phát tâm vô thượng, trồng các căn lành, đến đời vị lai, phát sinh tâm bồ đề, nhưng không tin đại thừa, khinh thường đại thừa.
Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát, ở chỗ vạn Đức Phật, phát tâm bồ đề, trồng các căn lành, ở đời vị lai phát sinh tâm bồ đề, nặng tin đại thừa nhưng không thọ trì, cũng không đọc tụng.
Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát, ở chỗ ức Đức Phật, phát tâm bồ đề, trồng các căn lành, ở đời vị lai, phát sinh tâm bồ đề, có khả năng lắng nghe, có khả năng ghi chép, nhưng không hiểu nghĩa lý sâu xa mầu nhiệm, không có khả năng quyết định.
Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát, ở chỗ mười ức Đức Phật, phát tâm bồ đề, trồng các căn lành, ở đời vị lai, phát sinh tâm bồ đề, lắng nghe thọ trì đại thừa, ghi chép, đọc tụng, nhưng đối với bồ đề nhẫn không thể thành tựu.
Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát, ở chỗ ba mươi ức Đức Phật, phát tâm bồ đề, trồng các căn lành, ở đời vị lai, phát sinh tâm bồ đề, nghe đại thừa, có khả năng thọ trì, ghi chép, đọc tụng, thành tựu đại nhẫn, đối với tam muội này, vẫn chưa tương ưng, không được ứng với biện tài.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Ba - Phẩm Vô Thường - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Tám - Phẩm địa Ngục
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Năm Mươi Ba - Phẩm Bảy Sự Việc Tựu Thành Giác Ngộ
Phật Thuyết Kinh đạo Thần Túc Vô Cức Biến Hóa - Phần Chín
Phật Thuyết Kinh Nghĩa Túc - Kinh Vua Duy Lâu Lặc
Phật Thuyết Kinh Bảo Nữ Sở Vấn - Phẩm Mười Hai - Phẩm đại Thừa