Phật Thuyết Kinh Niệm Tụng được Lược Ra Trong Kim Cương đỉnh Du Già - Phần Mười Chín
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Kim Cương Trí, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
NIỆM TỤNG ĐƯỢC LƯỢC RA
TRONG KIM CƯƠNG ĐỈNH DU GIÀ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Kim Cương Trí, Đời Đường
PHẦN MƯỜI CHÍN
Này thiện nam tử! Hãy lắng nghe! Nếu người hay làm như vậy thì tất cả Như Lai đều biết người này hay báo ân Phật. Chính vì thế cho nên ở tất cả thời xứ, tất cả bậc Trì Kim Cương đều hộ vệ khiến cho ngươi an vui.
Tiếp, nên dẫn khởi đến trước Đại Đàn.
Thuyết giảng Tam Muội Gia Samaya khiến cho kẻ ấy bền chắc.
Nói rằng: Này thiện nam tử! Ngươi nên kiên cố giữ lấy chính pháp. Giả sử có gặp khổ não bức bách cho đến đoạn thân mệnh, đừng nên buông bỏ xa lìa việc tu tâm bồ đề. Đối với người cầu pháp, đừng nên bủn xỉn tiếc rẻ. Đối với các chúng sinh, dù một chút việc chẳng lợi ích cũng không nên làm.
Đây là nghĩa của câu tối thượng. Nơi hành xử của Bậc Thánh. Nay ta vì ngươi, nói đầy đủ rồi, ngươi nên tùy thuận, tu hành như điều đã nói đệ tử nên tự vui mừng chắp tay đỉnh thọ.
Thầy lại cầm chày Ngũ Cổ Kim Cương trao cho, rồi bảo rằng: Đây là thể tính của Chư Phật, điều mà Kim Cương Tát Đỏa đã cầm giữ. Ngươi nên kiên cố giữ gìn cấm giới, thường chứa giữ đệ tử nhận xong thì trao truyền Quyết Định Yếu Thệ Mật Ngữ này, khiến kẻ ấy trì tụng.
Mật Ngữ là:
Án, tát bà đát tha yết đa, tất địa, bạt chiết la, tam ma gia, để sắt tra nguyện trụ ế sa ngày nay đát phộc hàm nơi tôi đà la dã, minh bay tôi trì giữ bạt chiết la tát đoả, hệ hệ hệ hệ, hồng.
OṂ SARVA TATHĀGATA SIDDHA VAJRA SAMAYA TIṢṬA EṢATVĀṂ DHARA YĀMI VAJRA SATVA HI HI HI HI HŪṂ.
Luận ghi rằng: Kim Cương Tát Đoả Thành Tựu Tam Ma Gia của tất cả Như Lai, nguyện trụ ở chỗ của con, con thường thủ hộ.
Như vậy làm pháp xong. Hết thảy tất cả Mạn Trà La Bí Mật Tam Ma Gia Trí Sarva maṇḍala guhya samaya jñāna, vị thầy nên truyền dạy.
Nếu Đệ Tử đối với Tam Muội Gia Khế Samaya mudrā có sự lùi mất thì vị thầy nên ngăn chận đừng khiến cho hủy hoại.
Đệ Tử đối với thầy nên cung kính tôn trọng, đừng thấy điều thiếu sót yếu kém của thầy, ở chốn học chung đừng nên hiềm hận thầy nên bảo rằng: Đối với tất cả chúng sinh, ngươi nên thường sinh lòng từ mẫn xót thương, bảo ban dạy dỗ và đừng sinh điều chán bỏ xa lìa xong, nói lời kệ rằng:
Ba cõi, tội rất nặng
Chẳng hơn ở yếm ly chán nản, xa lìa
Ngươi ở chốn tham dục
Đừng sinh tâm yếm ly.
Muốn khiến cho đệ tử kiên trì vui vẻ cho nên nói kệ rằng:
Tam Muội Gia nhóm này
Chư Phật vì ngươi nói
Cầm lấy khéo yêu giữ
Như giữ gìn thân mệnh.
Đệ Tử thọ nhận lời thầy dạy bảo xong, đỉnh lễ bàn chân của thầy mà thưa rằng: Như thầy dạy bảo, con thề tu hành.
Lại nên vì các đệ tử đã quán đỉnh, khiến cho họ viên mãn pháp tịch tĩnh, vì trừ tai chướng của họ cho nên cùng làm Pháp Hộ Ma Homa Ở phương Hoả Thiên Đông Nam của Đàn Quán Đỉnh.
Chẳng nên xa hẳn, làm cái Đàn rộng bốn khuỷu tay, cao một trách tay, bên trong làm Quân Trà Kuṇḍa: Cái lò, tròn thẳng khoảng một khuỷu tay, sâu mười hai ngón tay, lấy bùn sạch tốt xoa bôi, hai lớp làm đòn tay, đòn tay bên trong cao rộng đều một ngón tay, đòn tay bên ngoài cao rộng đều có bốn ngón tay, đáy nên bẳng phẳng.
Liền ở phần đáy ấy, lấy bùn làm tượng bánh xe, khuôn phép như tượng Bạt Chiết La, cái chuôi hướng về phương Nam ló ra như thế chữ Đinh. Cái chuôi dài bốn ngón tay, cao cũng bốn ngón tay, đầu nằm ngang dài tám ngón tay, cao rộng đều bốn ngón tay. Tiếp bên ngoài làm cái Đài bằng đất, hình như cánh sen.
Tiếp bên ngoài bày vị trí ngồi của thầy, vòng quanh Quân Trà trải cỏ Cát Tường làm vị trí ngồi của Chúng Thánh, rưới vảy nước thơm. Trải cỏ, rưới nước đều thuận chuyển làm.
Nên dùng bơ, lạc, sữa, mật, cháo sữa, bánh, quả, năm loại lúa đậu là: Lúa gié, lúa nếp, đậu xanh, mè, tiểu mạch…lấy cây Cát Tường làm củi. Nếu không có cây này thì lấy cây có nhựa màu trắng thay thế, ấy là nhóm lúa gié, cây dâu…chặt đứt ngang bằng, lấy riêng cành nhỏ, lớn như ngón tay cái, dài mười hai ngón tay, gồm một trăm lẻ tám cái. Để bơ, lúa gié với củi ở bên phải của Đàn.
Nếu chẳng thể làm Quân Trà. Liền dùng màu đỏ vẽ hình trạng ấy, bên trong an lò lửa, còn lại giống như bên trên. Vị thầy ngồi hướng mặt về phương Bắc, dẫn các Đệ Tử thứ tự bên trái quỳ thành hàng. Lấy Tịnh Hỏa lửa sạch lúc trước, hoặc mới nhóm đốt. Dùng hai vật dụng chứa nước thơm để trên Đài ấy, một cái dùng cúng dường Phật Bồ Tát, một cái dùng cúng Hoả Thiên Agni deva, rưới vảy nước làm sạch sẽ.
Để bên trong Quân Trà xong, tụng Mật Ngữ này:
Nam mạc tam mạn đa, bạt chiết la nam. Đát lại chiên trà, Ma Ha lộ sái na, tát phát la gia, hồng, ham, ma hàm.
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ CAṆḌA MAHĀ ROṢAṆA SPHAṬYA HŪṂ HĀṂ MĀṂ.
Tụng Mật Ngữ này ba lần, dùng nước sạch rưới vảy lửa kèm rưới vảy cỏ tranh, các vật cúng…
Tiếp, liền nhóm lửa, đừng dùng miệng thổi, nên dùng vật để quạt. Lấy bùn Bạch Đàn Hương xoa tô khắp Quân Trà, dùng hoa thơm màu trắng rải bốn mặt của Đàn.
Ở trong đám lửa, tưởng có chữ La RA biến làm Hoả Thiên Agni deva màu trắng, tóc màu vàng, ba mặt bốn cánh tay.
Bên phải: Một tay cầm bình Quân Trì, một tay cầm cây gậy.
Bên trái: Một tay tác tướng Vô Uý dựng thẳng về phíaq trước, duỗi lòng bàn tay, dựng lòng bàn tay hướng ra ngoài, một tay cầm tràng hạt. Tưởng khắp thân của Hoả Thiên sinh lửa mạnh.
Tiếp, cầm lò hương, thỉnh Phật Bồ Tát. Pháp Thức đã thỉnh như nói trong Đại Đàn. Chân thật tưởng Chư Phật Bồ Tát đều đến phó hội, ngồi trên cỏ Cát Tường. Vị thầy ấy dùng Quán Vũ tay phải làm tướng Vô Uý, Chỉ Vũ tay trái nắm cổ tay, như tượng vòng xuyến đeo cánh tay.
Liền triệu Hoả Thiên, tụng Mật Ngữ này:
Án, a yết na đa duệ, nễ ty, nễ bả gia, nễ phộc thấp vĩ nhương, hệ lý sử tát đá, sam ma, cật lý hứ đát phộc, a hổ đê, ma hạ lãm, a tát dân, tán nễ hệ đổ, bà phộc. Án, a yết na duệ, ha ty, kiếp tệ, bà ha na gia, nễ ty, nễ bả gia, tát bà ha.
OṂ AGNĀYE DITI DĪPAYA DEVA SVAJAḤ HE ṚṢĪ SATVA SAMA GṚHĪTVA ĀHUTIṂ ĀHARAM ASMIN SANNĪ HITO BHAVA OṂ AGNĀYE HAVYA KAVYA VĀHA NĀYA DITI DĪPAYA SVĀHĀ.
Lúc tụng Mật Ngữ này thời, tưởng có Hoả Thiên đi đến, y như bên trên đã tưởng trong thân.
Liền dùng nước thơm, búng ngón tay, rưới vảy lửa.
Tiếp cầm thìa Tế, múc vật của nhóm bơ, dầu, sữa, mật bên trên đều đủ ba thìa, dùng rót vào trong lửa để tế Hoả Thiên. Hoặc hoà chung một chỗ, cùng múc ba thìa, cũng được.
Lúc Tế thời mỗi một thìa thì tụng Mật Ngữ này một biến.
Mật Ngữ là: Nạp mạc tam mạn đa bột đà nam. Án, a già na duệ, tát bà ha.
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ AGNĀYE SVĀHĀ.
Vị thầy dùng Chỉ Vũ tay trái cầm chày Kim Cương dùng Đàn Độ ngón út móc Trí Độ của Quán Vũ ngón út phải của Đệ Tử. Dùng riêng cái thìa nhỏ, như trước rót vào lửa. Người mỗi mỗi đều 21 thìa, mỗi một lần thì tâm niệm Chư Phật Bồ Tát với Hoả Thiên. Đối với Tâm Mật Ngữ trong năm Bộ, tuỳ vui tụng, một thìa một biến để dùng cúng dường.
Nếu người tu Trừ Tai.
Tụng Mật Ngữ này: Nạp mạc tam mạn đa bột đà nam. A Ma Ha phiến địa, già đa, Ma Ha phiến đà ca la, bát lợi xả mang, đạt ma niết lý nhược đa, tát phá bà tốt đổ bà, đạt ma tam mạn đa, bát la đa, tát bà ha.
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ A MAHĀ ŚĀNTI GATA MAHĀ ŚĀNTA KARA PRAŚAMA DHARMA NIRJĀTA SVABHĀVA STŪPA DHARMA SAMANTA PRĀPTA SVĀHĀ.
Mỗi một Đệ Tử dựa theo đây mà làm.
Nếu Pháp của A xà Lê, tụng thêm đến một trăm lẻ tám biến. Lại dùng nhóm bơ, dầu, sữa, Mật cùng khấy đều hoà với nhau xong. Múc thìa nhỏ, số đến một trăm lẻ tám biến rót vào lửa cúng dường. Mỗi muỗng, tụng Đại Thừa Tam Ma Gia Bách Tự Mật Ngữ bên trên một biến.
Nếu ý muốn riêng tu cúng dường các hàng Bồ Tát. Liền đều tuỳ tụng Bản Tâm Mật Ngữ hoặc hai mươi mốt, bốn mươi chín tuỳ ý rót vào. Dùng một trăm lẻ năm cây củi nhỏ bên trên, mỗi một đầu cắm vào trong bơ, mật… mỗi một khi ném vào lửa.
Pháp đã làm xong. Tiếp nên cúng dường cấp thí cho các hàng Thiên Thần, quyến thuộc ở tám phương bên ngoài, phía sau toà ngồi như trên đã nói. Dựa theo Pháp tụng Mật Ngữ lúc trước, rót rưới trong lửa.
Như vậy làm xong.
Vị thầy đi ra, rửa tay quay về chỗ ngồi của mình, như trước rót ba muỗng cúng dường Hoả Thiên xong, bảo đệ tử rằng: Ngươi đã được pháp quán đỉnh đầy đủ. Giả sử dùng mọi loại cúng dường của thế gian cũng chẳng bằng đem thân của mình phụng thí Chư Phật Bồ Tát. Ngươi nên đều phát tâm như vậy.
Khiến các đệ tử đều tự phát nguyện xong. Vị thầy nên dùng tay cầm lò hương cúng dường khắp Phật Bồ Tát với Hoả Thiên xong. Liền tụng Mật Ngữ thỉnh quay về nơi chốn cũ.
Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tới vị trí của Đại Đàn, bảo Đệ Tử rằng: Chư Phật vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên nói diệu pháp của ruộng phước thù thắng này. Ngươi nên tuỳ theo sức đều bày biện hương hoa cúng dường đại chúng, hay khiến cho ngươi được vô lượng quả báo.
Lại vì cúng dường tất cả Như Lai với Kim Cương Bộ Chúng, nên dùng Yết Ma Khế với Tam Ma Gia Khế, như bên trên cúng dường.
Lại dùng Kim Cương Tán Thán Mật Ngữ làm bốn loại Pháp Mật Cúng Dường xong.
Tụng Già Tha Gāthā: Kệ này là:
Kim Cương Tát Đoả nhiếp thọ nên
Được thành báu Kim Cương vô thượng
Nay dùng Kim Cương Pháp ca vịnh
Nguyện vì con làm việc Kim Cương.
Lại dùng Kim Cương Vũ Hợp Chưởng với nhóm của Kim Cương Hý, Tiếu làm Pháp Mật Cúng Dường.
Tiếp nên dùng tay cầm hương hoa, cúng dường tánh chúng ở ngoại đàn xong, bảo các đệ tử rằng: Các ngươi tuỳ theo sức hay cúng dường Chư Phật.
Nhóm ấy tu cúng dường xong. Vì muốn hộ cho thân của các đệ tử cho nên ở chỗ của Phật Bồ Tát, thỉnh chút ít phần của nhóm hoa, hương, quả, bánh đã hiến cúng… mỗi mỗi đều chia ra, ban cho các đệ tử.
Lại khiến tác Yếu Thệ lần nữa, như bên trên đã nói, chẳng được tự ý nói pháp này.
Tác giáo giới xong, khiến các đệ tử đều quay về vị trí của mình. Vị thầy liền tuỳ theo sức, như thường niệm tụng lễ tán xong. Liền thỉnh Phật Bồ Tát với các hàng quyến thuộc trong Đàn quay về đất nước của mình.
Liền dựng kết Tát Đoả Kim Cương Khế, tụng Mật Ngữ này: Án, cật lý đổ phộc đã làm thắng thượng tát bà tát đoả tất cả chúng sinh át tha lợi ích tất đề thành tựu nại gia trao cho duệ nhập vào tha nỗ tuỳ nguyện giả xa đạt phàm quay về bột đà mật sái diêm Quốc Độ của Phật bố na la ngược, ma na gia vi quay trở lại rũ thương giáng phó án, bạt chiết la tát đoả, mâu.
OṂ KṚTOVAḤ SARVA SATVA ARTHA SIDDHIRDATTA YATHA ANUGĀGACCHATHAṂ BUDDHA VIṢAYAṂ PUNARĀGAMANĀYATU OṂ VAJRA SATVA MUḤ.
Luận ghi rằng: Đã làm thắng thượng lợi ích thành tựu, trao cho tất cả chúng sinh xong. Nguyện xin tất cả Chư Phật Bồ Tát quay trở lại nước của mình. Nếu thỉnh triệu lần nữa, nguyện xin giáng phó.
Khế với Mật Ngữ này, trong tất cả Đàn, thỉnh Phật Bồ Tát, các Bộ quyến thuộc quay về nơi chốn của mình, thảy đều dùng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba