Phật Thuyết Kinh Phân Biệt Thiện ác Báo ứng - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thiên Tức Tai, Đời Tống
PHẬT THUYẾT KINH
PHÂN BIỆT THIỆN ÁC BÁO ỨNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thiên Tức Tai, Đời Tống
PHẦN MỘT
Tôi nghe như vậy!
Một thời Thế Tôn ở vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây ông Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn đúng giờ ăn, ôm bát mang y vào thành Xá Vệ, thứ lớp khất thực. Ngài đi đến nhà của trưởng giả Đâu Nễ Dã Tử Du Ca, đứng ở ngoài cửa.
Bấy giờ trưởng giả Du Ca có một con chó tên là Thương Khư, nó thường đứng giữ cửa. Khi ấy trưởng giả thường dùng bát đồng đựng đầy đồ ăn ngon cho Thương Khư ăn.
Con chó thấy Đức Thế Tôn nó liền sân hận và sủa. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với con Thương Khư. Ngươi do chưa biết tỉnh ngộ nên thấy ta mới sủa.
Ngài nói như vậy xong, con Thương Khư chuyển từ ác tâm sanh ra sân hận, nó bỏ chỗ trước, đi đến ở dưới Tòa Chiên Đàn. Khi ấy trưởng giả Du Ca ra khỏi nhà, ở ngoài cửa, thấy con chó ở dưới Tòa Chiên Đàn, trưởng giả hỏi.
Người nào làm ngươi tức giận?
Con Thương Khư im lặng.
Bấy giờ trưởng giả Du Ca lại hỏi: Này Hiền Tử, người nào làm Thương Khư tức giận?
Khư tức giận?
Thưa rằng: Sa Môn Cù Đàm đã đến đây, đứng ở trước cửa, con thấy rồi sủa, Sa Môn Cù Đàm ấy nói như vậy. Do ngươi chưa ngộ nên nay mới sủa. Con nghe lời nói ấy rồi, tâm liền tức giận, đứng dậy bỏ chỗ ở cũ, đi đến ở dưới Tòa Chiên Đàn.
Bấy giờ trưởng giả Du Ca nghe lời nói ấy rồi, hết sức tức giận, đi ra khỏi thành Xá Vệ, đi đến vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây ông Kỳ Đà. Khi ấy Đức Thế Tôn cùng vô lượng trăm ngàn Chư Tỳ Kheo trước sau vây quanh ở tòa của Ngài để nghe thuyết pháp.
Bấy giờ Đức Thế Tôn từ xa trông thấy trưởng giả Du Ca đi lại, bảo các Tỳ Kheo rằng: Các ngươi có thấy Du Ca trưởng giả từ xa đi đến chăng?
Các Tỳ Kheo thưa: Thưa vâng, chúng con đã thấy.
Đức Thế Tôn dạy! Người con của trưởng giả này đang có tâm sân hận đối với Đức Phật, sau khi mạng chung sẽ đọa vào trong địa ngục lớn nhanh như tên bắn vậy.
Vì sao?
Vì phân biệt, chấp trước hư vọng, ta người, khởi ra phiền não sân, hủy báng Đức Phật, sẽ đọa vào các ác thú, thọ vô lượng khổ. Lại còn sanh tâm khinh mạn đối với ta, cũng như đối với tất cả chúng sanh.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với các Tỳ Kheo bằng bài kệ rằng:
Khởi ác tâm với Phật
Hủy báng, sanh khinh mạn
Vào trong địa ngục lớn
Thọ khổ vô cùng tận.
Có các loại hữu tình
Với Đạo Sư, Tỳ Kheo
Tạm thời sanh ác tâm
Mạng chung đọa địa ngục.
Nếu đối với Như Lai
Đều đọa trong ác đạo
Khởi tâm đại sân hận
Mãi luân hồi thọ khổ.
Bấy giờ Du Ca trưởng giả đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Phật, ở trước Đức Thế Tôn nói lên những lời nhu hoà, thiện tùy thuận, xưng tán Đức Như Lai. Nói như vậy rồi đứng qua một bên, bạch Thế Tôn rằng.
Thưa Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Ngài đến nhà tôi?
Đức Phật bảo trưởng giả Du Ca rằng: Đã đúng giờ ăn, ta bèn mang y cầm bát vào thành Xá Vệ, thứ lớp khất thực, cho đến nhà của ngươi thì ta đứng nơi cửa. Bấy giờ con Thương Khư đang đứng ở trước cửa, từ từ ăn đồ ăn đựng trong bát bằng đồng.
Thương Khư thấy ta đang đứng nơi cửa, nó liền sủa, ta nói: Này Thương Khư, do ngươi chưa ngộ, cớ gì mới thấy ta liền sủa?
Con chó nghe lời ấy liền sanh tâm sân hận đi đến chỗ khác.
Bấy giờ trưởng giả bạch Đức Thế Tôn rằng: Con chó Thương Khư này không biết kiếp trước nó như thế nào, cúi xin Đức Phật diễn thuyết cho.
Đức Phật dạy: Thôi ngươi đừng hỏi việc này. Nếu ngươi nghe việc này càng thêm ảo não, không thể chịu nổi đâu. Trưởng giả Du Ca ba lần thưa Đức Phật như vậy. Cúi mong Đức Phật diễn thuyết việc này cho con, con rất muốn được nghe.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo trưởng giả rằng: Nay ngươi hãy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ, ta sẽ phân biệt, diễn thuyết cho nghe. Con chó ấy chính là thân của Đâu Nễ Dã, cha của ngươi đó.
Ở trong đời quá khứ do vọng tưởng, chấp trước thân này. Vô ngã chấp là ngã, xan tham, tật đố, không chịu bố thí, tham tiếc tiền của, không tin Tam Bảo, cho nên phải đọa vào loài súc sanh vậy. Nay con chó Thương Khư này chính là cha của trưởng giả.
Trưởng giả Du Ca lại bạch Đức Thế Tôn: Cha của con là Đâu Nễ Dã, những ngày còn sống thường hay bố thí, thờ cúng Thiên hỏa và các quỷ thần, như vậy thân của cha con nhất định phải được sanh lên Trời Phạm, hưởng sự giàu có, sung sướng, vì cớ gì lại đọa vào trong loài súc sanh vậy?
Điều này thật khó tin!
Đức Phật bảo trưởng giả: Cha của ngươi là Đâu Nễ Dã, do sự phân biệt, vọng tưởng, sanh kế chấp trước, không hành huệ xả, không tin Tam Bảo, do nhân duyên ấy phải loài chó vậy.
Đức Phật lại bảo: Nay ta đã nói sợ ngươi không tin, vậy ngươi hãy trở về nhà hỏi con Thương Khư thì rõ. Bấy giờ trưởng giả chào Đức Phật rồi trở về nhà.
Đến nhà rồi, hỏi chuyện con chó: Này Thương Khư! Ngươi nếu thật là cha của ta tên là Đâu Nễ Dã, thì ngươi hãy ngồi lên Tòa Chiên Đàn đi.
Trưởng giả lại nói: Này Thương Khư! Nếu ngươi thật là cha của ta tên là Đâu Nễ Dã thì hãy đến mâm đồng ăn món này đi.
Sau khi con Thương Khư ăn xong, trưởng giả lại hỏi: Nếu thật là cha của ta, tên là Đâu Nễ Dã, vậy hãy hiển bày điều kỳ đi. Bấy giờ con Thương Khư nghe lời nói ấy rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ cũ, lấy mũi ngửi đất ở dưới Tòa Chiên Đàn, dùng chân bới ra một cái hũ, bên trong chứa đầy bình vàng, mâm bằng vàng và các loại tạp khí.
Khi ấy con Thương Khư thấy các thứ kim ngân châu báu hy hữu này liền sung sướng nhảy nhót, yêu thích những đồ được cất giấu này.
Bấy giờ trưởng giả Du Ca đi ra khỏi thành Xá Vệ, đến chỗ Đức Phật một lòng quy y. Khi ấy Đức Thế Tôn cùng vô lượng trăm ngàn Chúng Tỳ Kheo ở trước tòa đang thuyết pháp.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Các Tỳ Kheo có thấy trưởng giả Du Ca, con của Đâu Nễ Dã từ xa đi đến không?
Các Tỳ Kheo thưa: Thưa vâng, chúng con đã thấy.
Đức Phật nói: Này Tỳ Kheo, nay trưởng giả này nếu thân mạng chung thì như buông gánh nặng xuống, liền sanh lên Trời, do vì người ấy đang hoan hỷ, phấn khởi, phát tâm chân thật đối với ta, cho nên được quả báo như vậy.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo mà nói tụng rằng:
Đây là một hữu tình
Phát tâm muốn thấy ta
Mạng chung sanh lên Trời
Như buông xả gánh nặng
Đối với thầy thuyết pháp
Như Lai và Tỳ Kheo
Tạm thời tâm hoan hỷ
Quả báo cũng như vậy.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đã nói kệ này rồi, khi ấy trưởng giả Du Ca đi đến chỗ Đức Phật, Đầu mặt lạy dưới chân Ngài, vô cùng hoan hỷ, hết lời xưng tán, khen ngợi là điều chưa từng có. Nói như vậy xong, ông đứng qua một bên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Du Ca rằng: Con chó Thương Khư này quả thật là cha của người?
Trưởng giả thưa: Đúng vậy, Thưa Thế Tôn, như lời Đức Phật đã nói chân thật không hư dối, tất cả những điều nghi hoặc của con đều đã đoạn trừ.
Khi ấy trưởng giả Du Ca thưa Đức Thế Tôn rằng: Tất cả loài hữu tình chết yểu, sống lâu, có bệnh, không bệnh đoan nghiêm, xấu xí, sanh nhà hào quý, đê tiện, thông minh, ngu độn, mềm mại, thô lỗ. Các việc ấy không giống nhau.
Vậy nhân quả thiện ác báo ứng như thế nào?
Đức Phật bảo Du Ca trưởng giả rằng: Lành thay! Lành thay! Ngươi hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho. Tất cả hữu tình tạo nghiệp, tu nhân thiện ác không giống nhau, cho nên mới có sự báo ứng sang hèn, trên dưới, chủng tộc cao, thấp, sai biệt khác nhau. Nay ta lược nói những việc như vậy. Nếu phân biệt rộng rãi thì nghĩa ấy hết sức thâm sâu.
Bấy giờ trưởng giả lại thưa lạy với Đức Phật rằng: Cúi mong Đức Phật diễn thuyết cho con nghe.
Bấy giờ Đức Phật bảo trưởng giả rằng: Ông nên lắng nghe! Tất cả hữu tình tạo đủ các nghiệp, khởi lên nhiều mê hoặc. Chúng sanh tạo nghiệp có nghiệp ác, nghiệp thiện, vì thế quả báo cũng phân ra thiện, ác rõ ràng.
Nghiệp xấu, dữ thì thọ quả báo nơi ba cõi ác là địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, nghiệp lành tốt thì nhất định cảm quả báo nơi Cõi Trời, cõi người.
Lại nữa, nghiệp có phân hạng, mạng sống có ngắn dài. Lại nữa, có nghiệp khiến chúng sanh thọ quả báo nhiều bệnh, ít bệnh, đẹp đẽ, xấu xí.
Hoặc lại có nghiệp khiến chúng sanh thọ quả báo phú quý, bần cùng, thông minh, trí huệ, đần độn, ngu si, ám muội.
Hoặc lại có nghiệp khiến chúng sanh bị đọa vào ba đường ác.
Hoặc lại có nghiệp khiến được sanh ở Trời Dục Giới cho đến Cõi Trời Hữu Đảnh.
Hoặc lại có nghiệp khiến chúng sanh thọ quả báo xa gần.
Hoặc lại có nghiệp khiến chúng sanh mong cầu không toại nguyện.
Hoặc lại có nghiệp không cầu mà tự đến.
Hoặc có nghiệp khiến chúng sanh thành tựu khó hay dễ, thành công hay không thành công.
Hoặc lại có nghiệp khiến chúng sanh thọ mạng mãi mãi trong địa ngục hay yểu mạng, nhẹ nặng không đồng.
Hoặc có nghiệp khiến chúng sanh giàu sang, nghèo khổ, trước sau không nhất định.
Hoặc có nghiệp khiến chúng sanh giàu có hay khổ cực, ưa thích bố thí hay keo kiệt không đồng.
Hoặc lại có nghiệp khiến chúng sanh thọ mạng dài ngắn không nhất định.
Hoặc có nghiệp khiến chúng sanh thân tâm vui vẻ hay khổ não không nhất định.
Hoặc lại có nghiệp khiến chúng sanh có hình dáng đẹp đẽ, tươi tắn, đáng yêu, hay xấu xí, thô lỗ, đáng ghét.
Hoặc lại có nghiệp khiến chúng sanh các căn đầy đủ hay bị khuyết tật.
Bấy giờ Đức Phật bảo trưởng giả Du Ca rằng: Có mười thiện nghiệp cần phải tu tập, còn mười ác nghiệp ngươi hãy nên đoạn trừ.
Bấy giờ trưởng giả bạch Đức Phật: Thưa Đức Thế Tôn, hữu tình bị chết yểu là do nghiệp gì mà bị như vậy?
Đức Phật bảo trưởng giả rằng: Do sát sanh nên bị như vậy. Lại nữa, nghiệp sát có mười loại.
1. Tự tay giết.
2. Khuyên người khác giết.
3. Thấy giết thì hoan hỷ.
4. Tùy hỷ việc giết.
5. Giết bào thai.
6. Khuyên trục thai cho chết.
7. Oán thù mà giết.
8. Giết bằng cách đoạn nam căn.
9. Dùng các phương tiện để giết.
10. Sai người giết.
Mười thứ như vậy đưa đến quả báo chết yểu.
Lại nghiệp như thế nào mà được quả báo trường thọ?
Có mười loại nghiệp.
Những gì là mười?
1. Xa lìa việc tự tay giết.
2. Xa lìa việc khuyên bảo người giết.
3. Xa lìa sự hoan hỷ khi thấy giết.
4. Xa lìa việc tùy hỷ đối với sự giết hại.
5. Cứu người hình ngục bị giết.
6. Phóng sanh mạng.
7. Bố thí sự không sợ cho kẻ khác.
8. Thương xót vỗ về người bệnh.
9. Bố thí đồ ăn uống.
10. Cúng dường Tràng Phan, đèn đuốc.
Mười nghiệp như vậy nên được quả báo trường thọ.
Lại nghiệp như thế nào mà bị đến quả báo nhiều bệnh?
Có mười loại nghiệp.
Những gì là mười?
1. Tự hủy hoại loài hữu tình.
2. Khuyên người khác hủy hoại.
3. Tùy hỷ đối với sự hủy hoại.
4. Tán thán sự hủy hoại.
5. Bất hiếu với cha mẹ.
6. Kết nhiều oán xưa.
7. Làm nghề thuốc với tâm xấu ác.
8. Keo kiết sự ăn uống.
9. Khinh chê, ngạo mạn đối với Thánh Hiền.
10. Hủy báng Pháp Sư.
Mười loại như vậy bị quả báo có nhiều bệnh.
Lại nữa, nghiệp như thế nào mà được quả báo ít bệnh?
Có mười loại nghiệp.
Những gì là mười?
1. Không gây tổn hại hữu tình.
2. Khuyên người đừng làm tổn hại.
3. Không tùy hỷ sự làm tổn hại.
4. Không ngợi khen việc làm tổn hại.
5. Xa lìa việc vui sướng làm tổn hại.
6. Hiếu dưỡng cha mẹ.
7. Tôn trọng các bậc Sư Trưởng.
8. Không kết oán xưa.
9. Cúng dường Chúng Tăng được an lạc.
10. Bố thí thuốc men, ẩm thực.
Mười loại như vậy được quả báo ít bệnh.
Lại nữa, nghiệp như thế nào mà bị quả báo xấu xí?
Có mười loại nghiệp.
Những gì là mười?
1. Luôn khởi tâm phẫn nộ.
2. Buông lung tâm ngạo mạn.
3. Không hiếu thuận cha mẹ.
4. Luôn buông lung tâm tham si.
5. Hủy báng Hiền Thánh.
6. Xâm đoạt, cưỡng bức hại kẻ khác.
7. Ăn trộm ánh sáng dầu đèn của Phật.
8. Cười giỡn trên sự xấu xí của người khác.
9. Hủy hoại ánh sáng của Đức Phật.
10. Làm việc phi phạm hạnh.
Do mười thứ như vậy nên bị quả báo xấu xí.
Lại nữa, do nghiệp gì mà được quả báo trang nghiêm?
Có mười loại nghiệp.
Mười nghiệp ấy như thế nào?
1. Tu tập hạnh từ bi, nhẫn nhục.
2. Cúng dường nơi Tháp Phật.
3. Quét dọn Chùa Tháp.
4. Trang nghiêm tu sửa Tinh Xá.
5. Trang nghiêm Tượng Phật.
6. Hiếu dưỡng cha mẹ.
7. Tin kính, tôn trọng các bậc Thánh Hiền.
8. Khiêm cung, xa lìa sự ngạo mạn.
9. Đức Hạnh đầy đủ.
10. Xa lìa tâm tổn hại.
Do mười thứ này được quả báo trang nghiêm.
Lại nữa, do nghiệp gì mà chịu quả báo sanh vào dòng họ ti tiện?
Có mười loại nghiệp.
Mười loại ấy như thế nào?
1. Tham ái danh lợi, không tu hạnh bố thí.
2. Ganh ghét vì sự vinh hoa của người khác.
3. Khinh chê hủy báng cha mẹ.
4. Không tuân lời Pháp Sư.
5. Hủy báng Bậc Hiền Thiện.
6. Thân cận bạn ác.
7. Khuyên người khác làm ác.
8. Phá hoại điều thiện của kẻ khác.
9. Mua bán Kinh Phật, Tượng, Phật, Bồ Tát, Thánh Hiền.
10. Không tin Tam Bảo.
Do mười nghiệp như vậy bị quả báo ti tiện, sinh vào dòng họ thấp hèn, nghèo khó.
Lại nữa, do nghiệp gì mà được quả báo sanh vào nhà hào quý giàu có?
Có mười loại nghiệp.
Những gì là mười?
1. Xa lìa tâm ganh ghét, vui mừng thấy danh lợi của người khác.
2. Tôn trọng cha mẹ.
3. Tin kính, tôn sùng Pháp Sư.
4. Phát tâm bồ đề.
5. Cúng dường dù lọng cho Đức Phật.
6. Tu sửa trang nghiêm Chùa Tháp.
7. Sám hối nghiệp ác.
8. Rộng tu hạnh bố thí.
9. Khuyên người khác tu tập mười điều lành.
10. Tin kính, tôn sùng Tam Bảo.
Do mười thứ như vậy nên được quả báo sanh vào nhà hào quý, giàu có.
Lại nữa, do nghiệp gì bị quả báo gian ác ở nhân gian?
Có mười loại nghiệp.
Những gì là mười loại?
1. Tâm buông lung, ngã mạn.
2. Khinh mạn cha mẹ.
3. Khinh mạn bậc Sa Môn.
4. Khinh mạn Bà La Môn.
5. Khinh chê hủy báng Bậc Hiền thiện.
6. Khinh mạn người trong thân tộc.
7. Không tin thuyết nhân quả.
8. Chán ghét thân mình.
9. Oán ghét kẻ khác.
10. Không tin Tam Bảo.
Do mười thứ như vậy bị quả báo xấu ác ở cõi người.
Lại nữa, do nghiệp gì mà được quả báo thù thắng ở nhân gian?
Có mười loại nghiệp.
Mười loại ấy là gì?
1. Khiêm cung, xa lìa ngạo mạn.
2. Tôn trọng cha mẹ.
3. Tôn trọng Sa Môn.
4. Tin kính hàng Bà La Môn.
5. Yêu thương, giúp đỡ người thân tộc.
6. Tôn trọng Bậc Hiền Thánh.
7. Tu hành mười điều thiện.
8. Không khinh mạn chúng sinh.
9. Tôn trọng các vị Pháp Sư.
10. Một lòng kính tin Tam Bảo.
Do mười thứ như vậy nên được quả báo thù thắng ở cõi người.
Lại nữa, do nghiệp gì mà bị quả báo cô đơn nghèo khổ?
Có mười loại nghiệp.
Mười loại ấy là gì?
1. Luôn luôn trộm cướp.
2. Khuyên người khác trộm cướp.
3. Khen ngợi sự trộm cướp.
4. Tùy hỷ đối với sự trộm cướp.
5. Hủy báng cha mẹ.
6. Hủy báng Thánh Hiền.
7. Làm chướng ngại người khác bố thí.
8. Ganh ghét với danh lợi của người khác.
9. Keo kiết tiền của.
10. Khinh khi, hủy báng Tam Bảo, mong muốn Tam Bảo luôn gặp khó khăn.
Do mười loại như vậy nên bị quả báo cô đơn nghèo khổ.
Lại nữa, do nghiệp gì mà được quả báo có phước đức lớn?
Có mười loại nghiệp.
Mười loại ấy là gì?
1. Xa lìa việc trộm cướp.
2. Xa lìa việc khuyên người trộm cướp.
3. Xa lìa việc tùy hỷ đối với trộm cắp.
4. Hiếu dưỡng cha mẹ.
5. Tin kính, tôn sùng Thánh Hiền.
6. Vui mừng thấy danh lợi của người khác.
7. Rộng làm việc bố thí.
8. Không ganh ghét danh lợi của người khác.
9. Không tiếc tài bảo, thương xót người neo đơn bần cùng.
10. Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Do mười thứ như vậy nên được quả báo có phước đức lớn.
Lại nữa, do nghiệp gì mà bị quả báo ngu độn?
Có mười loại nghiệp.
Mười nghiệp đó là gì?
1. Chúng sinh này không tin Sa Môn, cũng không thân cận Sa Môn.
2. Không tin Bà La Môn.
3. Không tin Pháp Sư, cũng chẳng chịu thân cận.
4. Cất giấu giáo pháp, không truyền dạy.
5. Xoi mói những điều kém của Pháp Sư.
6. Xa lìa chánh pháp.
7. Đoạn diệt thiện pháp.
8. Hủy báng Bậc Hiền trí.
9. Học tập điều phi pháp.
10. Hủy báng chánh kiến, xưng dương tà kiến.
Do mười pháp như vậy cho nên bị quả báo ngu độn.
Lại nữa, do nghiệp gì mà được quả báo có trí huệ lớn?
Có mười loại pháp.
Mười pháp ấy là gì?
1. Chúng sinh này thân cận Sa Môn, thân tín cầu pháp.
2. Tin Bà La Môn.
3. Thân cận Pháp Sư, cầu hiểu được nghĩa sâu kín.
4. Tôn trọng Tam Bảo.
5. Xa lìa kẻ ngu si.
6. Không hủy báng Pháp Sư.
7. Cầu được trí huệ sâu.
8. Truyền pháp lợi sanh khiến cho chánh pháp không bị đoạn diệt.
9. Xa lìa điều phi pháp.
10. Xưng dương chánh kiến, xa lìa các tà kiến.
Do mười pháp như vậy cho nên được quả báo có trí huệ lớn.
Lại nữa, do nghiệp gì mà bị quả báo đọa địa ngục?
Có mười loại pháp.
Mười pháp ấy là gì?
1. Thân nghiệp bất thiện.
2. Khẩu nghiệp bất thiện.
3. Ý nghiệp bất thiện.
4. Hằng khởi lên thân kiến.
5. Hằng khởi lên biên kiến.
6. Tà kiến không đoạn.
7. Làm ác không đoạn.
8. Dâm dục, tà dâm.
9. Hủy báng Thánh Nhân.
10. Hoại diệt chánh pháp.
Do mười nghiệp như vậy nên bị quả báo đọa địa ngục.
Lại nữa, do nghiệp gì mà bị quả báo làm súc sanh?
Có mười loại nghiệp.
Những gì là mười?
1. Thân nghiệp tạo ác bậc trung.
2. Ngữ nghiệp tạo ác bậc trung.
3. Ý nghiệp tạo ác bậc trung.
4. Khởi sanh nhiều lòng tham.
5. Khởi sanh nhiều lòng sân.
6. Khởi sanh nhiều lòng si mê.
7. Bố thí không đúng pháp.
8. Sử dụng chú thuật trừ yểm.
9. Hủy hoại phạm hạnh của Bồ Tát.
10. Tin theo thường kiến, biên kiến, cho rằng.
Người chết thì trở lại làm người.
Do mười nghiệp như vậy nên bị quả báo làm súc sanh.
Lại nữa, do nghiệp gì mà bị quả báo làm ngạ quỷ?
Có mười loại nghiệp.
Mười loại nghiệp ấy là gì?
1. Thân tạo ác nghiệp nhẹ.
2. Khẩu tạo ác nghiệp nhẹ.
3. Ý tạo ác nghiệp nhẹ.
4. Tham tiếc tài vật, không chịu bố thí.
5. Khởi ra đại tà kiến, hủy báng giáo pháp nhân quả của Phật.
6. Ngạo mạn, tự thị, khinh khi, hủy báng kẻ Hiền Lương.
7. Làm chướng ngại người khác bố thí.
8. Không thương xót kẻ đói khát.
9. Tham tiếc đồ ẩm thực, không cúng dường cho Chúng Tăng của Phật.
10. Người khác được danh lợi thì tạo phương tiện làm cho ly cách.
Do mười nghiệp như vậy nên bị quả báo làm ngạ quỷ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Tịch điều âm Sở Vấn Kinh Như Lai Sở Thuyết Thanh Tịnh điều Phục - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Sáu Mươi Hai
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Mười - Kinh Cất Lầu Ba Tầng
Phật Thuyết Kinh Hưng Khởi Hạnh - Phật Thuyết Kinh Nhân Duyên Kiếp Trước Của Tôn đà Lợi
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Ba - Phẩm địa Ngục - Tập Chín
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Bốn Mươi Hai - Phẩm Ta Tỳ Da Xuất Gia
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Chín - Phẩm đà La Ni