Phật Thuyết Kinh Pháp Bí Mật Bồ Tát Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tam Muội Tô Khẩu Phược La, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH PHÁP BÍ MẬT BỒ TÁT

THIÊN QUANG NHÃN QUÁN TỰ TẠI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tam Muội Tô Khẩu Phược La, Đời Đường  

PHẦN MỘT  

Quy mệnh Thiên Quang Nhãn

Đại Bi Quán Tự Tại

Đầy đủ trăm ngàn tay

Muôn mắt cũng như vậy

Làm cha mẹ thế gian

Hay cho chúng sinh nguyện

Vì thế Bạc Già Phạm

Mật nói thắng pháp này

Trước tiên phát nguyện lớn

Muốn độ tất cả chúng

Chí thành xưng niệm tụng

Tây Phương Vô Lượng Thọ

Bởi vì niệm Bản Tôn

Tụng Đại Chú căn bản

Tùy Trí mà tu hành

pháp đấy mau thành tựu.

Một thời Đức Như Lai ngự trong cung điện của Quán Tự Tại Bồ Tát trên núi Bạch Hoa cùng với các đại chúng. Ở chốn ấy, Đức Thế Tôn và Quán Tự Tại Bồ Tát nói Đà La Ni tên là vô ngại đại bi.

Đại chúng nghe xong, không ai không vui vẻ, liền được mọi thứ Thượng Điạ thù thắng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo A Nan rằng: Vị Quán Tự Tại Bồ Tát ấy vì chúng sinh nên có đầy đủ ngàn cánh tay, ngàn con mắt.

Một ngàn điều ấy, nay ta chỉ nói lược về pháp của bốn mươi tay.

1. Như Lai Bộ.

2. Kim Cương Bộ.

3. Ma Ni Bộ. Hay Bảo Bộ.

4. Liên Hoa Bộ.

5. Yết Lỗ Ma Bộ hay Nghiệp Dụng Bộ.

Trong mỗi Bộ đều phối trí với tám tay hợp thành bốn mươi tay.

Trong năm Bộ này cũng có năm pháp là:

a. Pháp Tức Tai: Dùng Tôn của Phật Bộ vì thế có Tay Hố Phật, tay dây lụa, tay thí vô uý, tay phất trần trắng, tay bàng bài, tay việt phủ, tay kích sao, tay dương liễu. Đây là tám pháp.

b. Pháp Điều Phục: Dùng Tôn của Kim Cương Bộ vì thế có Tay Bạt Chiết La Đường nói: Kim Cương là Tam Cổ Kim Cương, tay Chày Kim Cương Độc Cổ Kim Cương, tay Kiếm Báu, tay Cung Điện, tay Bánh Xe vàng, tay Bát Báu, tay Nhật Ma Ni, tay Nguyệt Ma Ni. Đây là tám pháp.

c. Pháp Tăng Ích: Dùng Ma Ni Bộ vì thế có tay ngọc Như Ý, tay cung báu, tay Kinh báu, tay hoa sen trắng, tay hoa sen xanh, tay chuông báu nhỏ, tay hoa sen tím, tay bồ đào. Đây là tám pháp.

d. Pháp Kính Ái: Dùng Liên Hoa Bộ vì thế có Tay Liên Hoa hợp chưởng, tay Gương Báu, tay An Báu, tay Vòng ngọc, tay Hồ Bình, tay Quân Trì, tay Hoa Sen hồng, tay Tích Trượng. Đây là tám pháp.

e. Pháp Câu Triệu: Dùng Yết Ma Bộ vì thế có Tay Thiết Câu, tay Đỉnh Thượng Hố Phật, tay Tràng Hạt, tay Loa Báu, tay Tên Báu, tay Rương Báu, tay Gậy Đầu Lâu, tay Mây Ngũ Sắc. Đây là tám pháp.

Tùy theo ước muốn không gì không làm thành.

Lại nữa A Nan! Bồ Tát tại Điạ Vô Uùy đắc hai mươi năm tam muội đập nát hai mươi năm hữu.

Thiên Nam Tử! Thuở xa xưa, Quán Tự Tại Bồ Tát ở nơi Đức Thiên Quang Vương Tĩnh Trú Như Lai thọ nhận Đại Bi Tâm Đà La Ni này xong, vượt lên Đệ Bát Điạ, tâm được hoan hỷ, phát thệ nguyện lớn. Ngay lúc đó đầy đủ ngàn tay ngàn mắt, liền vào tam muội tên là vô sở úy.

Trong ánh sáng của tam muội hiện ra hai mươi năm vị Bồ Tát, các vị Bồ Tát đó đều có thân màu vàng, đủ các tướng tốt đẹp như Quán Tự Tại, nơi đỉnh đầu cũng có đủ mười một mặt, trên thân đều có đủ bốn mươi tay, trong mỗi lòng bàn tay có một con mắt từ bốn mươi tay mắt của hai mươi năm vị Bồ Tát hợp thành ngàn tay ngàn mắt. Chúng Hóa Bồ Tát của đẳng như vậy vây quanh mà trú.

Quán Tự Tại Bồ Tát ra khỏi tam muội bảo các vị Hồ Bồ Tát rằng: Các ông, ngày nay mong nhờ uy lực của ta nên đi qua hai mươi năm giới phá các ưu ám của cõi hữu.

Lúc ấy hai mươi năm vị Bồ Tát khác miệng cùng lời, nói Kệ rằng:

Ta là Đệ Nhất Nghĩa

Xưa nay tự thanh tĩnh

Bè dụ cho các pháp

Hay được thắng thanh tịnh

Hay dạo các Thế Giới

Phá hai mươi lăm hữu,

Nguyện lắng nghe ta nói

Đà La Ni Bí Mật.

Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp Vĩ Thâu Đà thanh tĩnh Bát Đá Ma liên hoa Tát Đát Phộc Hữu Tình Hệ Đa lợi ích Sa Phả La Noa vòng khắp tất cả Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA VI’SUDDHA PADMASATVA HITA SPHARANÏA SVÀHÀ.

Các vị Bồ Tát nói Đà La Ni này xong, bảo các đại chúng rằng: Đà La Ni này cũng là sở thuyết của Chư Phật quá khứ. Người hay thọ trì ắt được lợi ích nói xong liền vào tam muội.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Vô Cấu, nơi bốn mươi tay xuất hiện bốn mươi vị Bồ Tát phá điạ ngục hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Vô Thối, nơi bốn mươi tay hóa ra bốn mươi vị Bồ Tát hoại súc sinh hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Tâm Lạc, từ bốn mươi tay hiển hiện bốn mươi vị Bồ Tát hoại ngạ quỷ hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Hoan Hỷ, từ bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát hoại A tu la hữu.

Trên đây là cảnh của bốn nẻo ác.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Nhật Quang, nơi bốn mươi tay hóa ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Đông Thắng Thần Châu Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào Định Nguyệt Quang, nơi bốn mươi tay hiện bốn mươi vị Bồ Tát đoạn Tây Ngưu Hóa Châu Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào Định Nhiệt Diễm, từ bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Bắc Thượng Thắng Châu Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Như Huyễn, nơi bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát đoạn Nam Thiệm Bộ Châu Hữu.

Trên đây là cảnh của bốn Châu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào Định Bất Động, từ bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Tứ Thiên Xứ Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Nan Phục, nơi bốn mươi tay hóa ra bốn mươi vị Bồ Tát đoạn Đao Lợi Thiên Xứ Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào Định Duyệt Ý, nơi bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát đoạn Diễm Ma Thiên Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Thanh Sắc, nơi bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Đâu Suất Thiên Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Hồng Sắc, từ bốn mươi tay hiển bốn mươi vị Bồ Tát phá Hóa Lạc Thiên Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Xích Sắc, nơi bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát đoạn Tha Hố Tự Tại Thiên Hữu.

Đây là cảnh của sáu Trời cõi Dục. Nguyên cả phần trên là mười bốn Hữu của Dục Giới.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Bạch Sắc, từ bốn mươi tay hóa ra bốn mươi vị Bồ Tát đoạn Sơ Thiền Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Chủng Chủng, nơi bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Phạm Vương Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Song, nơi bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Nhị Thiền Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Lôi Âm, từ bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Tam Thiền Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Nhuận vũ, từ bốn mươi tay hiện bốn mươi vị Bồ Tát đoạn Tứ Thiền Hữu.

Trên đây là cảnh của bốn Tĩnh Xứ.

Hoặc một vị Bồ Tát vào Định Như Hư Không, từ bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát hoại Vô Tướng Hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Chiếu Kính, nơi bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Tĩnh Cư A Na Hàm Hữu.

Xong bảy hữu của Sắc Giới.

Hoặc một vị Bồ Tát vào tam muội Vô Ngại, từ bốn mươi tay hiển bốn mươi vị Bồ Tát đoạn Không xứ hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào Thường Tam Ma Địa, nơi bốn mươi tay hóa ra bốn mươi vị Bồ Tát hoại Thức xứ hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào Lạc Tam Ma Địa, từ bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát phá Vô sở hữu xứ hữu.

Hoặc một vị Bồ Tát vào Ngã Tam Ma Địa, nơi bốn mươi tay hiện ra bốn mươi vị Bồ Tát hoại Phi tưởng phi phi tưởng xứ hữu.

Xong bốn cảnh của bốn Không xứ, bốn hữu của Vô Sắc Giới.

Như trên, hai mươi năm vị Bồ Tát sở hiện của đại bi đều đủ mười một mặt bốn mươi tay, được hai mươi năm tam muội, đoạn hai mươi năm hữu. Một hữu được phối trí với bốn mươi tay mắt nên bốn mươi hữu được phối hợp với một ngàn mắt một ngàn tay.

Này thiện nam tử! Hai mươi năm tam muội như vậy gọi là tam muội Vương, các Bồ Tát vào tam muội Vương của Đẳng này nếu muốn thổi nát núi Tu Di… tùy ý liền có thể được. Như muốn biết ý niệm trong tâm của tất cả chúng sinh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới thì cũng có thể biết tất cả.

Muốn chia một thân thành nhiều thân, lại hợp nhiều thân dùng làm một thân chỉ tác tâm như thị không có chỗ dính mắc giống như hoa sen.

Chính vì thế cho nên Quán Tự Tại Bồ Tát thành tựu các tam muội Vương dùng một Pháp Thân hiện ra hai mươi năm thân, cũng dùng hai mươi năm thân hiện ra nhiều Bồ Tát.

Một ngàn vị Bồ Tát ấy, mỗi mỗi vị, trên đỉnh đầu có đủ mười một mặt, nơi mặt chính có ba mắt. Như vậy mỗi mỗi có đủ hai mươi năm, đều ở một giới có bốn mươi vị Bồ Tát trong mỗi mỗi giới đều phối trí với một ngàn mắt. Tất cả đều là sở tác đại bi của Quán Tự Tại.

Lúc đó, A Nan bạch Phật rằng: Ngày nay chúng con mong nhờ uy lực của Đức Phật được nghe về lực đại thần thông và lực vô úy của Bồ Tát như vậy.

Con có sự nghi ngờ, nguyện xin Đức Thế Tôn diễn nói về danh hiệu của hai mươi năm vị Bồ Tát trên, chúng hội chúng con vui nguyện muốn nghe.

Đức Phật ngắt lời: Này thiện nam tử! Nay Quán Thế Âm Tự Tại muốn nói pháp ấy. Nay chính là lúc, các ngươi hãy lắng nghe. Ta nhớ về thuở xa xưa, Quán Tự Tại Bồ Tát ở trước ta, thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh đầy đủ mười hiệu.

Vào lúc ấy, ta là đệ tử khổ hạnh dưới trướng của Đức Phật ấy mong nhờ sự giáo hố của Ngài mà nay được thành Phật. Mười phương Như Lai đều do sức giáo hố của Quán Tự Tại, nơi Diệu quốc thổ được Đạo Vô Thượng, chuyển bánh xe diệu pháp.

Chính vì thế cho nên các ngươi đừng sinh nghi hoặc, thường nên cúng dường, luôn luôn xưng danh hiệu sẽ có công đức ngang bằng sự cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa số Như Lai, huống chi chí thành cúng dường, phước đó sẽ vô lượng.

Nói xong Đức Phật điềm nhiên an toạ.

Bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ Tát vui vẻ mỉm cười, phóng ra ánh sáng lớn, trên đầu hiển hiện năm trăm đầu mặt đầy đủ một ngàn con mắt. Nơi mỗi mỗi cái mão Thiên Quan đều có vị Hố Phật cũng phóng ra ánh sáng.

Trên thân Bồ Tát hiện ra một ngàn cánh tay đều cầm vật báu, ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy bảo các đại chúng: Đức Đại Thánh Thế Tôn đã nói lời chân thật không hư dối. Muốn nghe hai mươi năm danh hiệu của đẳng ta.

Hãy lắng nghe Nay ta nói về thứ tự như sau:

Nam Mô Bột Đà Gia. Nam Mô Đạt Ma Gia. Nam Mô Tăng Già Gia cho đến… Chân Đẳng Giác Thế Tôn.

Lễ như vậy xong, các ngươi nên lễ Danh Hiệu của Đẳng Ta là:

Nam Mô Thánh Giả Thiên Quang Nhãn Tôn Bạt Khổ Quán Tự Tại.

Dữ Trí Quán Tự Tại.

Thí Nguyện Quán Tự Tại.

Trừ Kích Quán Tự Tại.

Trừ Khuể Quán Tự Tại.

Tiến Đạo Quán Tự Tại.

Cần Chính Quán Tự Tại.

Thí Vô Úy Quán Tự Tại.

Thí Quang Quán Tự Tại.

Dữ Cam Lộ Quán Tự Tại.

Kiến Thiên Quán Tự Tại.

Thí Diệu Quán Tự Tại.

Kiến Lạc Quán Tự Tại.

Giáng Ma Quán Tự Tại.

Tĩnh Lự Quán Tự Tại.

Tác Cữu Quán Tự Tại.

Kiến Thiền Quán Tự Tại.

Oán Địch Quán Tự Tại.

Điều Trực Quán Tự Tại.

Không Huệ Quán Tự Tại.

Hộ Thánh Quán Tự Tại.

Thanh Tĩnh Quán Tự Tại.

Chính Pháp Quán Tự Tại.

Nan Dục Quán Tự Tại.

Bất Động Quán Tự Tại Bồ Địa Tát Đố Bà Gia, Ma Ha Tát Đố Bà Gia, Ma Ha Ca Lô Ni Ca Gia.

Xưng niệm như vậy xong, nên thỉnh cứu hộ: Nguyện con sẽ mong nhờ sự hộ niệm qua uy quang Đại Bi của Quán Tự Tại Tôn, Sa Bà Ha.

Bấy giờ Hư Không Tạng Bồ Tát vì các đại chúng bạch với Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Lành thay! Lành thay! Quán Tự Tại từ vô lượng kiếp đến nay thành tựu pháp môn đại bi lợi ích cho chúng sinh. Nơi biển khổ sinh tử làm thuyền bè. Nơi vô minh ám tối thường làm đèn pháp.

Nguyện xin Đại Thánh rộng vì đại chúng với tất cả chúng sinh ngày sau, tùy câu hỏi của chúng tôi mà diễn nói pháp đó. Như phần trên, Đức Như Lai diễn nói pháp bốn mươi tay là pháp của Ngọc Như Ý và Tạng Bồ Đề.

Đấy là thân sợ hiện của giới nào?

Bồ Tát đáp rằng: Lành thay! Đại Sĩ đã hỏi như vậy. Bốn mươi pháp hiện nay do Đức Như Lai nói là thân sở hiện của Thí Vô Úy Quán Tự Tại Bồ Tát ở cõi Nam Thiệm Bộ Châu. Nay tôi muốn nói pháp chân ngôn với Nghi pháp về ảnh tượng của bốn mươi vị Bồ Tát đó.

Lúc ấy trong hội có vô lượng Tiên Nhân Trì Chú với tất cả Thánh Chúng muốn nghe pháp này liền đến trước mặt Bồ Tát làm lễ rồi ngồi xuống.

Quán Tự Tại nói rằng: Nếu muốn được tài bảo giàu có, nên tu pháp Ma Ni Tay Như Ý Châu.

Muốn tu pháp này, tắm gội sạch sẽ, lấy vải trắng sạch hoặc giấy hoặc luạ làm Ma Ni và nguyện trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát. Làm thân thể màu vàng ròng, đỉnh đầu có mười một mặt, ba mặt trước là tướng Bồ Tát, ba mặt bên phải là tướng lộ nanh trắng, ba mặt bên trái là tướng phẫn nộ, một mặt đằng sau là tướng cười vui, một mặt trên đỉnh là tướng Như Lai.

Mặt chính của Bồ Tát có hai mắt, dùng áo Cà Sa, vòng anh lạc… trang nghiêm diệu thể. Bồ Tát ngồi theo thế bán già, chân phải đè lên chân trái, ngồi trên tồ sen hồng ở trong vành trăng. hai mươi năm vị Bồ Tát lúc trước và hình của một ngàn vị Bồ Tát sở hiện đều giống nhau không sai khác, chỉ tùy theo điều nguyện cầu mà cầm giữ vật báu đến đem cho.

Nay Dữ Nguyện Quán Tự Tại Bồ Tát, tay trái đặt ngang trái tim cầm Ma Ni, hình trạng trái châu màu lưu ly, ánh sáng vàng và phát ra ánh lửa. Tay phải kết Dữ Nguyện khế, co cánh tay hướng lên trên. vẽ tượng như vậy xong, đặt ở nơi thanh tĩnh, lễ bái, cúng dường, tác pháp niệm tụng.

Tướng ấn đó là: Hai tay buộc chặt, tiến lực hai ngón trỏ làm hình Ma Ni, thiền trí hai ngón cái kèm duỗi đứng, liền thàng tựu.

Chân ngôn là:

1. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp Chấn Đa Ma Ni Như ý châu Nhập Phộc La Quang minh Phộc La Ni Dữ nguyện Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA CINTAMANÏI JVALA VARANÏI SVÀHÀ.

Nếu muốn được an ổn nên tu pháp Quyến Sách Sợi dây Tượng Trì Sách Quán Tự Tại Bồ Tát đó, tướng tốt đẹp uy quang như trên đã nói, chỉ có tay phải nắm quyền đặt ở eo phải. Tay trái co cánh tay lại cầm sợi dây, vẽ tượng xong.

Tướng ấn đó là Kết Vị Phu Liên Hoa ấn ấn hoa sen chưa nởtiến lực hai ngón trỏ giữ nhau như cái vòng. Đây gọi là Liên Hoa Sách hay mãn các ý nguyện.

Chân ngôn là:

2. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Bát Ná Ma Bá Xả Liên Hoa Sách Hồng Hộ khắp Điạ Sắt Tra Phòng hộ, gia trì Tát Võng không có thể trái ngược. Ma Hàm nơi tôi Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA PADMA PA’SA HÙMÏ ADHISÏTÏA SVAMÀMÏ SVÀHÀ.

Nếu muốn trị bệnh trong bụng, có thể tu pháp bát báu. Nên vẽ tượng Bảo Bát Quán Tự Tại Bồ Tát, tượng đó tướng tốt đẹp trang nghiêm như trước nói, xong hai tay để ngang rốn cầm bình bát báu, liền thành. Tướng ấn đó là lý trí hai tay trái phải kết Nhập Định ấn.

Chân ngôn là:

3. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp A Ô Ná La Thâu Lam không có bệnh trong bụng sa phộc hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA A UDARA’SULAMÏ SVÀHÀ.

Nếu muốn giáng phục Vọng Lượng Quỷ Thần, nên tu pháp kiếm báu. Tượng Bảo Kiếm Quán Tự Tại Bồ Tát đó, tướng tốt đẹp trang nghiêm như trên không sai khác, chỉ có tay phải cấm cây kiếm hợp chắc.

Tay trái đặt trên eo, đem ngón cái đè lên móng của điạ thủy ngón út, ngón vô danh hoả phong ngón giữa, ngón trỏ kèm cứng Ấn đó hướng về thân an, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó là tay phải ngón cái đè lên móng hai ngón điạ thủyngón út, ngón vô danh, kèm chắc hoả phong ngón giữa, ngón trỏ liền thành.

Chân ngôn là:

4. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp Kiệt Nga cây kiếm Tát Phộc Lam La Ha Tất cả quỷ Tát Bà Tra Phá hoại Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA KHANÕGA SARVA GRAHÀ SPHATÏ SVÀHÀ.

Nếu muốn giáng phục Đại Ma Thần, nên tu pháp Phộc Nhật La tay Tam Cổ Xử Tượng Kim Cương Quán Tự Tại đó, tướng tốt đẹp uy quang như trước đã nói, xong tay phải cầm chày Tam Cổ đặt ở eo phải. Tay trái nắm quyền đặt ở eo, vẽ tượng xong. Tướng ấn là Tay phải ngón cái đè lên đồng với móng ngón út, các ngón còn lại như hình Phộc Nhật La, chuyển bên trái ba vòng.

Chân ngôn là:

5. Án Ngột Ly Chủng tử Phộc Nhật La Bà Ni Trì Kim Cương Mala Bát La Ma Lật Dạ Hộ Ma. Sa Phộc Hạ.

OMÏ HRÌHÏ VAJRAPÀNÏI MÀRÀ PRAMATHNA SVÀHÀ.

Nếu người muốn đập nát ốn địch nên tu pháp Kim Cương Xử Độc Cổ Kim Cương Tượng Trì Xử Quán Tự Tại đó, tướng tốt đẹp trang nghiêm như trên đã nói, chỉ có tay trái nắm quyền đặt ở eo. Tay phải cầm chày Độc Cổ đặt ở lông mày như thế đập đánh, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó là Tay phải nắm quyền, duỗi ngón trỏ dùng ấn làm thế đập nát.

Chân ngôn là:

6. Án Ngột Ly chủng tử Phộc Nhật La Bá Ninh Trì Kim Cương Tát Phộc Thiết Xuất Lỗ tất cả ốn địch Sa Phá Tra Phá Hoại Sa Phộc Hạ.

OMÏ HRÌHÏ VAJRAPÀNÏI SARVA ‘SATRÙ SPHATÏ SVÀHÀ.

Nếu muốn lìa sợ hãi nên tu pháp Thí Vô Úy. Tượng Trừ Bố Quán Tự Tại Bồ Tát, tướng tốt đẹp uy quang như trước không khác, chỉ duỗi năm ngón tay phải hiện chưởng, tay trái duỗi năm ngón nâng đặt ở trên vú trái hiện chưởng, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó như tướng tay ấn của tượng vẽ.

Chân ngôn là:

7. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp Tát Phộc Tha khắp kẻ khác. Nhĩ Na Nhĩ Na thắng, năng thắng Bội Dã Nẵng Xa Na trừ khủng bố Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA SARVATHA JINA JINA ABHAYAMÏDÀDA SVÀHÀ.

Nếu người bị mắt mờ cầu ánh sáng, có thể tu pháp Nhật Tinh Ma Ni. Tượng Nhật Tinh Quán Tự Tại Bồ Tát tướng tốt đẹp trang nghiêm như trên đã nói, chỉ có tay trái trên bàn tay cầm Hoả pha lê Nhật tinh tay phải ngửa lòng bàn tay đặt ở trái tim, vẽ tượng xong.

Tướng ấn đó là nâng tay định tay trái làm thế nhận Mặt Trời, quán trong mắt của ta có chữ MA trong mắt phải, TÏ trong mắt trái. Nếu muốn được thiên nhãn, quán ngay giữa hai lông mày có một con mắt.

Tụng chân ngôn là:

8. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp A Nhĩ Điạ Gia Mặt Trời Nhập Phộc La Quang minh Nhĩ Khất Sô con mắt Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA ÀDITYA JVALA CAKSÏU SVÀHÀ.

Nếu muốn tiêu trừ tất cả nhiệt não nên tu pháp Nguyệt Tinh Ma Ni. Tượng Nguyệt Tinh Quán Tự Tại, tướng tốt đẹp trang nghiêm như trên đã nói chỉ có tay phải mở lòng bàn tay cầm Thủy pha lê, tay trái duỗi năm ngón làm thế xoa thân, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó như tay ấn của tượng.

Chân ngôn là:

9. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp Chiến Đà Gia Mặt trăng Tát Phộc Ná Hạ Bát La Xả Nhĩ trừ tất cả nhiệt não Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA CANDRA SARVA DAHA PRA’SAMANA SVÀHÀ.

Nếu muốn thăng quan tiến chức nên tu pháp cây cung báu.

Tượng Trì Cung Quán Tự Tại, tướng tốt đẹp uy quang như trước nói, xong tay định tuệ tay trái, tay phải cầm cây cung nằm ngang làm thế tính số do tuần, vẽ tượng xong Tướng ấn đó là Kim Cương hợp chưởng, tụng chân ngôn là:

10. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Kiến Tra Đà Noa Sa cây cung A Bát La Để Ha Đa Gia không có chướng ngại Tam Ma Điạ Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA KETI DHANÏDÏASI APRATIHATÀYA SAMADHI SVÀHÀ.

Nếu muốn có bạn lành nên tu pháp mũi tên báu. Tượng Tốc Trực Quán Tự Tại, tướng tốt đẹp trang nghiêm như trước không khác, chỉ có tay phải cầm mũi tên, đặt đầu mũi tên lên trên tay trái, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó là tay phải nắm quyền bung đứng ngón trỏ, ngón giữa, dùng ấn làm thế kêu gọi.

Chân ngôn là:

11. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp La Đát Na Kiếm Noa mũi tên báu Man Thù diệu âm Tát Đát Bà chúng sinh Duệ Ế Duệ Tứ mau lại La Ngã La Ngã ái nhiễm, ái nhiễm Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA RATNAKANÏDÏA MAMÏJUSATVA EHYEHI RÀGA RÀGA SVÀHÀ.

Nếu muốn tiêu trừ mọi bệnh trên thân nên tu pháp thuốc của nhành dương liễu. Tượng Dược Vương Quán Tự Tại, tướng tốt đẹp trang nghiêm bhư trước đã nói, chỉ có tay phải cầm nhành dương liễu, tay trái đặt trên vú hiển chưởng, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó là tay phải co cánh tay, buông các ngón rũ xuống. Tụng chân ngôn xong, xoa trên thân thể.

Chân ngôn là:

12. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Bệ Sái Nhĩ Gia thuốc. La Nhạ Gia Vua. Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA BHAISÏAIJYA RÀJAYA SVÀHÀ.

Nếu muốn giải thốt tất cả chướng nạn nên tu pháp cây phất trần trắng, tướng của tượng Phất Nạn Quán Tự Tại và sự trang nghiêm như trước không khác, xong tay phải co cánh tay hướng lòng bàn tay ra ngồi, tay trái cầm cây phất trần trắng, vẽ tượng xong. Tướng ấn là tay trái co cánh tay, rũ các ngón tay xuống dưới, tụng chú chuyển bên trái.

Chân ngôn là:

13. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Thú Ca La Phộc La Nhĩ Dã Chế Nẵng Phất Trần Trắng Tát Phộc Ma La Bà Gia tất cả chướng nạn Vĩ Mục Khất Để giải thốt Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA ‘SUKRA VALAVYAJANA SARVA MÀRÀBHAYA VIMUKTI SVÀHÀ.

Nếu muốn cầu quyến thuộc hòa thuận an lành nên tu pháp Hồ Bình, tượng Trì Bình Quán Tự Tại, tướng tốt đẹp uy quang như trên nói, chỉ có tay phải cầm Hồ Bình, đầu cái bình như đầu chim Kim Xí điểu, tay trái để trên rốn hướng lên trên thành thế nhận cái Hồ Bình, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó là ấn hoa sen chưa nở, mở đứng hai không hai ngón cái cùng hợp ngón trỏ.

Chân ngôn là:

14. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Ma Hạ Muội Đát Lý Đại Từ Võng Bà Phộc phát sinh Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA MAHÀ MAITRÌ UDBHAVA SVÀHÀ.

Nếu muốn tịch trừ tất cả thú ác nên tu pháp Bàng Bài, tượng Hiện Nộ Quán Tự Tại Bồ Tát, tướng tốt đẹp trang nghiêm như trước nói, chỉ có tay trái hướng ra ngồi cầm hình Bàng Bài. Tay phải kết Quyền ấn, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó là tay trái hướng ra ngồi, duỗi các ngón tay xoay chuyển, tay phải nắm quyền làm thế đánh kẻ khác.

Chân ngôn là:

15. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Tát Phộc Một Ly Thủy Chỉ Ca Tát Phả Nẵng Câu La Ngươn xà, chuột, lang… Tư Dựng Hạ Sư Tử Vĩ Dã Già La đại trùng Ly Khất Xa con gấu Đá La Lý Khất Xa con Bi Giá Mạt La Nhĩ Vĩ Ngoa cá Ma Kiệt Hồng niệm khủng bố Phát Tra phá hoại Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA SARVA BRÏ’SCIKA SARPA NAKULA SIMÏHA VYAGHRA RÏIKSÏA TARA RÏIKSÏA CAMARA JIVIKA HÙMÏ PHATÏ SVÀHÀ.

Nếu muốn lìa nạn của quan quyền nên tu pháp Phủ việt cây búa lớn, tượng Trấn Nạn Quán Tự Tại Bồ Tát, tướng tốt đẹp trang nghiêm như trước không khác, xong tay phải cầm phủ việt, tay trái nắm quyền đặt ở eo, vẽ tượng xong. Tướng ấn đó là co tay phải như thế cầm búa, dùng ấn chuyển hồi.

Chân ngôn là:

16. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp Phả La Thú phủ việt La Nhạ Bà Gia nạn Vua chúa. Vĩ Mục Khất Để giải thốt Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA PARASU RÀJABHAYA VIMUKTI SVÀHÀ.

Nếu cầu nam nữ tôi tớ nên tu hành pháp cái vòng ngọc. Tượng Trì Hồn Quán Tự Tại Bồ Tát, tướng tốt đẹp uy quang như trước đã nói, xong tay trái để ở trái tim cầm vòng ngọc, tay phải che trên vòng ngọc như cái lọng, vẽ tượng xong. Tướng ấn là dùng tay trái nắm cổ tay phải cũng dùng tay phải nắm cổ tay trái, bên trái biểu thị cho nữ, bên phải biểu thị cho nam.

Chân ngôn là:

17. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương pháp Vĩ Sái Dã cảnh giới Liệp Đà gặt được. Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA VISÏAYA PRÀPTA SVÀHÀ.

Nếu muốn thành tựu công đức nên tu pháp Hoa sen trắng, tượng Phân Diệp Quán Tự Tại Bồ Tát, tướng tốt đẹp trang nghiêm như trên nói, chỉ có tay trái cầm hoa sen trắng, tay phải kết ấn thuyết pháp, vẽ tượng xong. Tướng ấn là Khai phu diệp ấn ấn hoa sen hé nở.

Chân ngôn là:

18. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Sâm Bà Phệ Bát Ná Ma hoa sen trắng Ni Phú Nhĩ vào Hoa Tạng dùng trang nghiêm Pháp Thân Sa Phộc Hạ.

OM VAJRA DHARMA SAMBHAVEPADMA NIPUNÏA SVÀHÀ.

Nếu muốn vãng sinh về Tịnh thổ ở mười phương nên tu pháp Hoa Sen Xanh, tượng Kiến Phật Quán Tự Tại, tướng tốt đẹp uy quang như trước không khác, xong tay phải cầm hoa sen xanh, tay trái đặt trên vú trái hiển chưởng, vẽ tượng xong. Tướng ấn là tác Liên Hoa hợp chưởng, bung như thế hoa nở.

Chân ngôn là:

19. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Tụy La Bát Nạp Ma hoa sen xanh Ổn Nghiệt Đá sinh Bột Đà Vĩ Sái Uấn Phật Quốc. Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA NÌLAPADMA UDGATA BUDDHÀ VISÏAYA SVÀHÀ.

Nếu người cầu trí tuệ nên tu pháp cái gương báu, tượng Kính Trí Quán Tự Tại Bồ Tát, tướng tốt đẹp uy quang như trên đã nói, chỉ có tay trái để ngay trái tim cầm cái gương báu hướng ra ngồi, tay phải kết Trí quyền ấn, vẽ tượng xong.

Tướng ấn đó là tay phải nắm quyền đặt ở eo, tay trái mở duỗi ra nâng lên trước mặt, thấy ấn này tưởng thấy đại viên kính trí.

Chân ngôn là:

20. Án Phộc Nhật La Đạt Ma Kim Cương Pháp Tát Phộc Tất Điạ thành tựu tất cả Ma Ha Chỉ Nhương Nẵng đại trí tuệ Sa Phộc Hạ.

OMÏ VAJRA DHARMA SARVA SIDDHI MAHÀ JNÕÀNA SVÀHÀ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần