Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Hai Mươi Chín - Phẩm Tinh Tấn Tu Khổ Hạnh - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT
KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẨM HAI MƯƠI CHÍN
PHẨM TINH TẤN TU KHỔ HẠNH
PHẦN HAI
Đại Vương nghe qua lời tâu như vậy, liền bảo người con của Quốc Sư: Hay thay Ưu Đà Di! Khanh có thể đến bên Thái Tử, nếu như Thái Tử chấp nhận lời của khanh trở lại Hoàng Cung, thì khanh nên theo sát Thái Tử, mau mau cùng nhau trở về. Còn như Thái Tử không chịu về, thì khanh cũng lánh khỏi nơi đây không được gặp mặt ta.
Tại sao như vậy?
Vì khanh nói như vậy, tuy giải được nỗi phiền muộn của ta, nhưng nếu Thái Tử không về thấy lại mặt khanh, thì ta bị thất vọng, càng tăng sự ưu sầu. Lúc bấy giờ, Ưu Đà Di, người con của Quốc Sư sửa sang xa giá, khởi hành từ thành Ca Tỳ La, trực chỉ hướng bờ sông Ni Liên thuộc xứ Ưu Lầu Tần Loa.
Khi đến nơi, trước tiên Ưu Đà Di thấy nhóm năm người Kiều Trần Như có mặt nơi đây, liền hỏi: Thưa nhân giả Kiều Trần Như, hiện nay Thái Tử Tất Đạt Đa ở chỗ nào?
Kiều Trần Như đáp lời Ưu Đà Di: Thái Tử Tất Đạt Đa đã vào trong rừng đang tu khổ hạnh.
Ưu Đà Di lại hỏi tiếp: Người hầu cận Thái Tử tên gì?
Kiều Trần Như đáp: Này Ưu Đà Di, người đó tên là A Xa Du nhà Tùy dịch là Điều Mã, ông nên hỏi người này.
Khi ấy Ưu Đà Di liền đến trước A Xa Du thưa:
Này A Xa Du, ông có thể đến chỗ của Thái Tử, tâu giùm ta lời này: Vương Phụ của Thái Tử có sai sứ giả đến đây muốn ra mắt Thái Tử.
Điều Mã đáp lời Ưu Đà Di: Ta thật không dám đến gặp Thái Tử để trình lời nói này.
Tại sao như vậy?
Thưa nhân giả, Thái Tử đã tu khổ hạnh trải qua sáu năm. Từ khi Ngài xuất gia cho đến nay, chưa từng hướng mặt về chốn quê nhà, chỉ ngồi quay lưng. Về thành Ca Tỳ La.
Tại sao như vậy?
Vì nhàm chán nguy hiểm của cuộc đời. Này Ưu Đà Di, một mình ông có thể vào rừng diện kiến Thái Tử để trình bày lời dạy của Phụ Vương.
Khi ấy Ưu Đà Di một mình đi vào rừng, thấy Bồ Tát nằm trên mặt đất, từ đầu đến chân đều bị bụi phủ không còn oai nghiêm tươi sáng, cùng với màu đất, thân thể gầy ốm không còn một chút thịt, chỉ da bọc lấy xương giữ thân mà thôi. Đôi mắt sâu thẳm, giống như ngôi sao đặt dưới đáy giếng, toàn thân co quắp các đốt xương đều giãn ra.
Ưu Đà Di thấy thân hình Bồ Tát như vậy, đưa cao hai tay kêu gào khóc lóc la lớn lên: Ôi thôi! Ôi thôi! Người con dòng họ Thích của chúng ta, ngày nay bổng gặp tai nạn đến nỗi này. Thuở xưa, thân hình tuấn tú, nhan sắc tuyệt vời đáng yêu vậy mà ngày nay thân thể ra nông nổi thế này, giống như đất không khác. Đã không được giải thoát an lạc, mà ngược lại tổn hại uổng phí thân hình tốt đẹp.
Khi ấy, nghe tiếng kêu gào của Ưu Đà Di, Bồ Tát hỏi: Người này là ai mà trong lòng ưu sầu, ảo não kêu la giống như tiếng của người bị lửa đốt vậy?
Ưu Đà Di đáp lại lời Bồ Tát: Bạch Thái Tử, tôi là con của Quốc Sư trong nước của Thái Tử, tên Ưu Đà Di, được Đại Vương Tịnh Phạn, Phụ Vương của Ngài phái đến đây thăm và nghênh đón Thái Tử.
Bồ Tát lại nói: Này Ưu Đà Di, ta không cần đến sứ giả phiền não này, ta chỉ muốn được sứ giả Niết Bàn, không muốn sứ giả sinh tử của Phụ Vương.
Ưu Đà Di lại thưa Bồ Tát: Bạch Đại Thánh Thái Tử, nhân giả ngày nay lập thệ nguyện gì kiên cường đến thế này?
Bồ Tát đáp lời Ưu Đà Di: Nguyện rằng thân ta ở nơi mảnh đất này, dù bị nghiền nát như hạt mè đen hay hạt cải trắng, nếu không được pháp tự lợi và lợi tha. Tâm ta vẫn tinh tấn quyết không buông xuôi mà sinh biếng nhác. Thân tâm ta ngày nay chỉ thệ nguyện như vậy.
Ưu Đà Di bạch Bồ Tát: Tâu Đại Thánh Thái Tử, tôi ở trước mặt Đại Vương Thái Tử đã nhận lời thề: Con phải quyết định kề bên Thái Tử cùng nhau trở về thành. Ngày nay, Thái Tử đã thệ nguyện sâu nặng như vậy, nếu như chưa được pháp tự lợi và lợi tha mà bỏ thân mạng thì làm sao tôi dám rời Thái Tử để trái lời thệ nguyện của tôi mà một mình trở về vào, thành Ca Tỳ La.
Bồ Tát một lần nữa bảo Ưu Đà Di: Này Ưu Đà Di, ta ở nơi đây tu khổ hạnh, nếu như chưa được pháp tự lợi, nửa chừng trên đường tầm đạo mà bỏ mạng, ông nên nhặt thi thể cửa ta khiêng vào thành Ca Tỳ La theo cửa thành lúc trước ta ra đi.
Hãy vì ta, ông tuyên bố với tất cả dân chúng trong ngoài thành Ca Tỳ La: Đây là hài cốt thi thể của người tinh tấn cương quyết giữ lời chân thật, lập thệ nguyện chánh tâm chánh ý.
Này Ưu Đà Di, lại vì ta, ông đáp lời hỏi của Phụ Vương, ông| nên tâu thế này: Đại Vương phải biết, Thái Tử đã vì hết sức tinh tấn chẳng phải do giải đãi nên ngày nay đã bỏ mạng. Cương quyết giữ lời chân thật nên đã bỏ mạng, chứ không dối trá.
Này Ưu Đà Di, ngày nay ta tuy như vậy, nhưng ở trong rừng ban đêm ta mộng thấy vô lượng Chư Thiên ẩn thân đến bên ta, đảnh lễ dưới chân và bạch: Thái Tử Tất Đạt Đa, ngày nay Ngài nên rất hoan hỷ!
Từ nay trở đi, nội trong bảy ngày nữa, nhất định Ngài sẽ thành tựu điều lợi ích vĩ đại.
Này Ưu Đà Di, ta mộng thấy như vậy, hoàn toàn không phải là không có.
Này Ưu Đà Di, ông nên trở về Hoàng Cung, ta chẳng cần cùng ông làm bạn.
Khi Ưu Đà Di nghe lời thệ nguyện của Bồ Tát như vậy, nên không còn chút gì hy vọng, liền rời khỏi chỗ Bồ Tát ngồi trong rừng, một mình đi ra khỏi rừng. Sau khi ra khỏi rừng, vị này trở về thành Ca Tỳ La để yết kiến Đại Vương Tịnh Phạn.
Đến Hoàng Cung, ông ta tâu Đại Vương Tịnh Phạn: Đại Vương biết cho, Vương tử Tất Đạt Đa bình an dũng mãnh, còn sống chẳng phải chết.
Đại Vương Tịnh Phạn nói: Nếu Thái Tử con ta bình an không chết, ta còn gì sầu muộn. Sau khi nghe lời tâu của Ưu Đà Di, nhà Vua rất hoan hỷ. Thuở ấy Ma Vương Ba Tuần ở Dục Giới muốn làm nhiễu loạn Bồ Tát, nên trong sáu năm Bồ Tát tu khổ hạnh, thường luôn luôn âm thầm sát bên Bồ Tát để tìm cơ hội sai lầm nho nhỏ mà chẳng có.
Có kệ nói:
Khung cảnh vắng lặng thật tuyệt vời
Tòng lâm phong cảnh cây tươi tốt
Ưu Lầu Tần Loa phía Đông này
Bên cạnh bờ sông Ni Liên Thiền
Địa thế nơi đây Ngài chọn được
Thệ nguyện kiết già hành khổ hạnh
Phát tâm dũng mãnh đại tinh cần
Nhất định đến nay, ta giải thoát.
Ma Vương Ba Tuần tới nơi này
Đem lời đường mật dối thưa rằng.
Cúi xin nhân giả sống lâu dài
Thọ mạng lâu dài mới đắc pháp
Sống lâu mới đức được tự lợi
Tự lợi về sau khỏi hối tiếc.
Giờ đây nhân giả thân gầy ốm
Nhất định sẽ chết trong chốc lát
Nay thật, nhân giả ngàn phần chết
May ra phước đức sống một phần.
Nên bố thí nhiều cúng Chư Thiên
Đối với Thần lửa nên tế tự
Nhờ vậy mới được công đức nhiều
Tu tập thiền định có ích chi
Xuất gia tầm đạo thật gian nan
Điều phục tự tâm đâu phải dễ.
Ma gần Bồ Tát bằng cách ấy
Dùng đủ lời lẽ giả ngợi khen.
Bồ Tát khi ấy giọng dịu hiền
Dùng lời sâu sắc đáp Ma Vương:
Ba Tuần phóng dật, ngươi bất thiện
Vì cầu tự lợi, hành thế pháp
Tâm ông cho đó là phước đức
Rốt cuộc không cầu được mảy may.
Nếu người thật sự cầu phước đức
Chẳng nên nói ra lời như vậy
Khổ chết với ta đồng như sống
Thật không một niệm sợ bị chết.
Giả sử chúng sinh đều tận diệt
Tâm ta hoàn toàn không thoái chuyển
Nay xây cầu lớn qua biển dục
Tinh tấn dũng mãnh tu phạm hạnh.
Nếu do phong tai thổi thế gian
Tất cả các sông còn khô cạn
Huống chi máu, dịch trong thân thể
Chất nước trong người cũng cạn khô,
Mỡ tủy chất ướt bị khô trước
Kế đến da thịt lại khô sau
Da thịt tiêu rồi khí lực kém
Tâm ý bấy giờ mới tịch định.
Tất cả tinh tấn thêm tăng trưởng,
Chỉ còn đi vào cửa chánh định
Ta nay muốn tu pháp hạnh này,
Mong cầu đạt đến vô thượng giác.
Do đó, thân mạng ta không tiếc
Ngươi biết tâm ta thật thanh tịnh
Tâm ta đã đạt chỗ chí thành
Trí tuệ trang nghiêm thật bền vững.
Thế gian chưa thấy có người nào
Có thể ngăn được ta tinh tấn
Ta thà chịu chết mất mạng người
Không cần sống lâu nơi cung điện.
Trượng phu thà chết, cần chiến đấu
Quyết chẳng tham sống, hàng kẻ khác
Dũng mãnh đã chiến thắng đối phương
Địch đã hàng rồi, nào có sợ
Dũng kiện thì phá được kẻ địch
Ta chẳng bao lâu phá ma chúng:
Ma quân thứ nhất là tham dục
Tên ma thứ hai chẳng hoan hỷ
Thứ ba đói khát cùng lạnh nóng
Đam mê ái dục, ma thứ tư
Ma thứ năm chính là thùy miên
Kinh hãi sợ sệt, ma thứ sáu
Mê hoặc nghi ngờ, ma thứ bảy
Sân hận phẫn nộ, ma thứ tám
Thứ chín tên là tranh lợi dưỡng
Ngu si vô trí ma thứ mười
Cao ngạo kiêu căng ma mười một
Mười hai thường hay hủy nhục người
Các ngươi quyến thuộc ma Ba Tuần
Quân mã hành động đều hắc ám
Chúng ma đến đây hại hành giả
Những bậc Sa Môn Bà La Môn.
Bọn ngươi thường đi khắp thế gian
Mê hoặc tất cả Trời và người
Quân mã các người gặp phải ta
Đem binh trí tuệ rất hùng cường
Có tài chiến thắng chẳng còn ai
Đại quân các ngươi bị phá sạch
Như nước làm rã bình đất sống
Quân ngươi tiêu tán chẳng khác nào.
Tâm ta chánh định vững như núi
Phương tiện trí tuệ đều thành tựu
Tâm không phóng dật tu chánh hạnh
Người sao tìm được chút lỗi lầm!
Bấy giờ Bồ Tát lại suy nghĩ thế này: Nếu trong quá khứ có Sa Môn hay Bà La Môn, vì tự lợi mà tu tập các pháp đại khổ hạnh, hoặc tâm chẳng vui, hoặc cả thân tâm chẳng vui, với các cảm thọ như vậy, thì các Sa Môn Bà La Môn cũng chẳng hơn khổ hạnh như ta ngày nay do cầu tự lợi, nên thân và tâm chịu các khổ, chẳng vui.
Nếu ở đời vị lai, có các Sa Môn và Bà La Môn vì cầu tự lợi, thân tâm thọ các khổ hạnh, cũng chẳng hơn các khổ hạnh của ta ngày hôm nay do cầu tự lợi, mà thân tâm chịu các khổ hạnh.
Nhưng ta vẫn chưa chứng được pháp Thượng Nhân, chưa được tri kiến, cũng chưa chứng được tăng ích, vậy có thứ đạo nào để chứng được đạo quả bồ đề?
Rồi Bồ Tát lại tư duy tiếp: Ta nhớ khi còn trong cung của Phụ Vương, đi xem nông dân canh tác, ta gặp tàng cây Diêm Phù Đề mát mẻ. Thấy rồi, liền tĩnh tọa dưới tàng cây, ta xả bỏ tất cả tâm dục nhiễm, nhàm chán các pháp bất thiện, khởi tâm phân biệt ưa thích tịch định nên sinh hỷ lạc, chứng được Sơ Thiền.
Ta hãy tư duy lại thiền định đó, con đường này chắc hướng về đạo bồ đề. Bồ Tát suy nghĩ như vậy rồi, y như pháp nhất tâm chánh quán, nhập vào cảnh tịch định, mong nhờ thiền định này mà đạt đến giác ngộ.
Ngài liền nói kệ:
Pháp môn khổ hạnh chẳng ly dục
Chẳng phải chánh đạo đến bồ đề
Chẳng phải thắng nhân cầu giải thoát
Chỉ là làm khổ cho thân tâm.
Ngày nay nếu ta muốn tu học
Cần phải như xưa xem canh tác
Ngồi dưới tàng cây Diêm Phù nọ
Lìa nhiễm chứng được định Tứ thiền.
Khi ấy Bồ Tát lại suy nghĩ: Lạc của thiền định chỉ lìa các dục và pháp bất thiện, ta nào không biết cái lạc đó, ta nên chứng cái lạc đó, vì muốn thành tựu nhất thiết tri kiến.
Rồi Bồ Tát lại suy nghĩ: Ta muốn thành tựu cái lạc của nhất thiết tri kiến cần phải có sự sống an lạc.
Nhưng ngày nay ta suy nhược không có sức lực, thì làm sao với chiếc thân suy nhược yếu đuối này mà có thể đạt được lạc ấy?
Do vậy, lúc này ta cần thân thể khỏe mạnh, phải ăn những thức ăn thô. Như là đậu nấu hay bánh bún. Hoặc dùng dầu hoặc bơ để thoa trên thân, rồi sau đó mới dùng nước nóng tắm rửa thân thể.
Bồ Tát nói với người hầu cận Bà La Môn: Này Đề Bà, kể từ nay, ta không dùng những thức ăn như trước để duy trì thân mạng. Ý ta muốn có thức ăn bổ dưỡng hơn để hồi phục cơ thể như là ăn uống các thứ bánh, bún, đậu nấu. Hoặc dầu mỡ để thoa trên thân và nước nóng để tắm gội.
Ông có thể sắm đủ các thứ này cho ta chăng?
Đề Bà bạch Bồ Tát: Ngày nay, tôi không có các thứ như vậy, lại nữa nhà tôi nghèo không thể sắm các vật đó, vả lại nếu lúc này dâng hiến liền cho Bồ Tát cũng không thể được. Nhưng nhân giả phải lập lời thề, thì tôi sẽ vì nhân giả dùng mọi phương tiện tìm cầu.
Bồ Tát hỏi: Ông muốn ta lập lời thề gì?
Đề Bà bạch Bồ Tát: Khi nhân giả tu khổ hạnh rồi, tâm nguyện được viên mãn, khi ấy nhân giả bố thí pháp cho tôi, rồi lại đến nhà tôi thọ vật thực do tôi cúng dường.
Bồ Tát đáp: Đúng theo lời nguyện của ông. Khi Bà La Môn Đề Bà được Bồ Tát hứa khả rồi, liền vâng lời Bồ Tát ra đi, hướng về nhà Bà La Môn Tư Na Da Na.
Đến nơi Đề Bà nói với Bà La Môn đó: Thưa nhân giả, mong rằng vui với pháp hạnh, hiện cách làng này chẳng bao xa, có một Sa Môn tu đại khổ hạnh, Ngài trải qua nhiều năm tháng không ăn, nay muốn cầu thức ăn. Hoặc cơm, bún, bánh, bơ mỡ, mật, đậu nấu. Hoặc dầu thoa thân và cần nước nóng tắm gội.
Nhân Giả có thể cung cấp các thứ đó chăng?
Thuở ấy, nhà Bà La Môn Quân Tướng Tư Na Da Na có hai người con gái, một tên là Nan Đà nhà Tùy dịch là Hỷ, người thứ hai tên là Bà La nhà Tùy dịch là Lực. Hai nàng này dung nhan thật đoan trang xinh đẹp, ở thế gian ít ai sánh bằng.
Trước đây, hai nàng từng nghe: Cách đây về phương Bắc ở dưới chân Tuyết Sơn, có một xứ thuộc dòng họ Thích tên là Ca Tỳ La Bà Tô Đô. Vị Vua trị vì thành này họ Thích tên là Tịnh Phạn, Đại Phu Nhân thứ nhất của Vua tên là Ma Da.
Hoàng Hậu sinh một Thái Tử, hình dung đẹp đẽ tuyệt vời, dung nhan phi thường hết sức dễ thương, sắc thân như vàng, trên đỉnh đầu tròn như chiếc lọng, mũi như chim anh võ.
Tay dài quá gối, tất cả bộ phận trên người đều đầy đặn, các căn hoàn bị, giống như tượng vàng, đầy đủ ba mươi hai tướng Đại Nhân trang nghiêm thân thể, khắp thân đầy đủ tám mươi vẻ đẹp.
Sau khi Thái Tử đản sinh, nhà Vua mời tướng sư đến xem tướng Thái Tử, tướng sư tiên đoán: Nếu Thái Tử ở tại gia nhất định sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương cai trị bốn châu thiên hạ, làm chủ cõi Đại Địa này, đầy đủ bảy bấu, dùng chánh pháp trị hóa thế gian. Nếu Thái Tử xuất gia sẽ thành Bậc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, tiếng đồn khắp mọi nơi.
Hai nàng nghe danh tiếng Thái Tử, nên đã từng tỏ lòng mơ ước với cha mình: Con từng nghe Thái Tử họ Thích đẹp đẽ dễ thương vô song như vậy, Thái Tử có thể làm chồng chúng con.
Quân Tướng Tư Na Da Na biết được tin tức Bồ Tát qua Bà La Môn Đề Bà, bèn bảo hai người con gái: Lòng mơ ước của chị em con sẽ thành hiện thực.
Tại sao?
Các con hãy mau đến chỗ Đại Sa Môn tu khổ hạnh kia.
Để làm gì?
Sau khi hai con đến đó rồi, thưa thỉnh cung kính cúng dường thức ăn, dâng hiến dầu và bơ dùng để thoa thân, rồi sau đó cung cấp nước nóng để Sa Môn tắm gội. Do việc làm này, sự mơ ước của hai con sẽ được thành tựu.
Hai cô gái của Quân Tướng nghe cha dạy như vậy, liền đem theo thực phẩm, dầu và bơ, những vật phẩm sẵn có trong nhà, đi đến chỗ Bồ Tát khổ hạnh.
Đến nơi hai nàng lễ dưới chân Bồ Tát, rồi đem vật thực dâng lên và bạch Bồ Tát: Nguyện Tôn Giả nạp thọ vật thực dâng cúng của tôi. Bồ Tát nhận vật thực của hai nàng, tự ý thọ thực, lấy dầu và bơ thoa vào thân, rồi sau đó mới dùng nước nóng tắm rửa.
Khi Bồ Tát dùng dầu bơ thoa vào thân, mỗi thứ theo lỗ chân lông hút vào bên trong cơ thể, giống như đống đất hay đông cát, tất cả dầu bơ thấm vào bên trong, không có một chút ở bên ngoài.
Đúng vậy, đúng vậy. Dầu bơ thoa vào thân Bồ Tát đều hút hết vào bên trong, không có một chút dính bên ngoài. Thân thể Bồ Tát lúc bấy giờ vẫn chưa hồi phục như xưa.
Khi Bồ Tát thọ thực xong, bảo hai nàng: Hai chị em người muốn hồi hướng công đức này về ý muốn gì?
Hai nàng bạch Bồ Tát: Thưa Đại Thiện Tôn Giả, trước đây chúng tôi nghe dòng họ Thích hạ sinh một Thái Tử, hình dung đoan chánh dễ thương, trên thế gian này không có người thứ hai, chúng tôi nguyện vị Thái Tử đó cùng kết nghĩa trăm năm.
Bồ Tát bảo: Này hai chị em, ta chính là Thái Tử dòng họ Thích. Từ nay trở đi, ta nguyện không còn hưởng thọ thú vui ngũ dục. Ta nguyện tương lai sẽ thành tựu Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, nguyện chuyển pháp luân Vô Thượng.
Hai nàng nghe Bồ Tát nói như vậy, lại bạch Bồ Tát: Đại Thánh nhân giả, việc này đúng như vậy, nhân giả sẽ chứng quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Sau khi Ngài đạt đạo rồi, xin đến nhà chúng tôi. Chúng tôi mong được gặp Ngài để làm đệ tử Thanh Văn của Tôn Giả.
Bồ Tát lại đáp lời hai nàng: Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời nguyện của hai chị em. Từ đó trở đi hai nàng mỗi ngày đem đồ ăn dâng cúng Bồ Tát, rồi dùng bơ dầu thoa trên mình Bồ Tát và sau đó dùng nước nóng tắm rửa thân thể Bồ Tát. Cứ như thế thân thể Bồ Tát lần lần phục hồi tướng tốt như xưa.
Khi ấy Bồ Tát bảo hai nàng: Chị em người từ nay trở đi, hai nàng không được tự ý đem nước tắm thân ta, thôi việc đó đi, chỉ cần đem thức ăn.
Vì sao?
Từ nay về sau, nếu thân ta cùng người nữ tiếp xúc thì không được. Ý ta chẳng thích, ý ta chẳng phải như vậy.
Thuở ấy, có một kẻ chăn dê vì thấy Bồ Tát tu khổ hạnh thân thể ôm yếu, lại thấy Bồ Tát hết sức siêng năng cần khổ, nên đối với Ngài, sinh tâm hoan hỷ, liền đến nơi quỳ xuống, bạch Bồ Tát: Thưa Đại Thánh Tôn Giả, ngày nay tùy ý tôi muốn tôn trọng phụng sự cúng dường Tôn Giả, không biết ý của Ngài có chấp nhận hay chăng?
Bồ Tát đáp: Nếu người thấy đúng lúc, thì sớm sắm các vật tùy theo ý muốn của người. Người chăn dê liền dùng dầu thoa trên thân Bồ Tát, rồi đem sữa dê dâng cúng cho Bồ Tát dùng, lại bẻ cành đại thọ Ni Câu Đà cắm trên đất che mát cho Bồ Tát. Nhưng do thần lực của Bồ Tát cành cây Ni Câu Đà vừa cắm xuống đất, liền mọc thành thân cây cành lá hoa quả tất cả đều đầy đủ. Người đương thời trông thấy, gọi cây này là Cây Ni Câu Đà chăn dê trồng.
Khi Bồ Tát ăn thức ăn thô, năm vị tiên đồng tu với Bồ Tát, thảo luận với nhau: Ngày nay Thái Tử Tất Đạt Đa thoái thất thiền định trở lại tính cũ, không còn trì giới, nay Thái Tử thành người giải đãi, không còn tịch định, tâm sinh rối loạn. Phê bình như vậy rồi, đối với Bồ Tát, họ ngao ngán phỉ báng, xa lìa Bồ Tát mà đi nơi khác. Lần lần, họ đến nước Ba La Nại, vào Vườn Nai tu thiền định ở đó.
Có kệ:
Tiên Nhân khổ hạnh cả năm người
Thấy Bồ Tát ăn thức ăn cúng
Cho rằng chẳng còn tu thiền định
Phóng túng nuôi dưỡng thân năm đại.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Sông Tro
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Chiến đấu - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Vô Thường - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tam Muội Niệm Phật - Phẩm Mười - Chánh Quán
Phật Thuyết Kinh Xuất Sinh Vô Biên Môn đà La Ni - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Mười - Phẩm Phân Biệt Hương đốt
VỊ TỲ KHEO BỊ KẾT TỘI TRỘM CẮP
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Cầu đại Sư - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh chánh Pháp Hoa - Phẩm Mười Tám - Khen Pháp Sư - Phần Hai