Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm Khuyên Hưởng Thọ Dục Lạc Thế Gian - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM HAI MƯƠI TÁM

PHẨM KHUYÊN

HƯỞNG THỌ DỤC LẠC THẾ GIAN  

PHẦN MỘT  

Khi Bồ Tát từ biệt Ưu Đà La La Ma Tử ra đi, Ngài ung dung chậm rãi tiến về phía núi Bàn Trà Bà Tùy Dịch Huỳnh Bạch Sắc.

Đến dưới chân núi, Ngài tìm chỗ đất bằng phẳng, ngồi kiết già dưới một cội cây, thân hình đoan chánh tập trung tư tưởng ở trong chánh niệm bất động, giống như có người bị lửa cháy trên đầu, cấp tốc tiêu diệt vứt lửa xuống đất. Bấy giờ, trong tâm Bồ Tát muốn trừ sạch hết phiền não cũng như vậy.

Bồ Tát tư duy: Không biết bao giờ ta đập tan khối đại phiền não! Không biết bao giờ ta phá được kho tàng đại ngu si để chứng quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác!

Chúng sinh đang chìm đắm trong biển sinh tử, không biết bao giờ làm cho họ thoát khỏi! Ngài tư duy như vậy rồi, oai đức thể hiện rực rỡ. Lúc ấy trong núi có nhiều hạng người, hoặc đi lượm củi, hoặc đi lượm phân bò, hoặc đi săn thú, hoặc đi cày làm ruộng, hoặc đi chăn trâu, cùng những người đi đường họ trông thấy Bồ Tát ngồi dưới gốc cây trong núi Bàn Trà Bà, giống như khối ngọc hay pho tượng vàng chiếu sáng.

Thấy rồi, họ đều cho rằng điều chưa từng có, cùng nói với nhau:

Này các người, vị này không phải người thường, không biết từ đâu đến đây?

Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là Thần núi Bàn Trà?

Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là Tiên Nhân tu ở trong núi Bàn Trà Bà?

Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là vị Thần Minh ở xứ nào đến?

Hoặc họ cho rằng đây phái chăng là vị Thần hộ núi Tỳ Phú La?

Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là vị Thần thủ hộ núi Kỳ Xà Quật?

Hoặc họ cho rằng, đây phải chăng là vị Thần Đại Địa từ dưới đất xuất hiện?

Hoặc họ cho rằng đây phải chăng là Thiên Tử Cõi Trời từ hư không giáng hạ đến đây. Bọn họ đều nghi ngờ không biết lý do gì thân thể vị Thần này sáng chói oai đức trang nghiêm, chiếu sáng cả núi, giống như ánh sáng vầng nhật nguyệt chiếu khắp, như hoa các cây Sa La đều khoe sắc.

Đây chẳng phải là ánh sáng của bậc Đại Nhân thì làm sao có thể hiện được những việc như vậy! Qua đêm ấy, ngày hôm sau Trời vừa tảng sáng, Bồ Tát mặc y phục chỉnh tề rời khỏi núi Bàn Trà đi chậm rãi vào thành Vương Xá khất thực. Trên đường đi, Ngài quán sát các ấm đều khổ, không, vô thường, muốn cầu pháp Vô Dư Đại Niết Bàn. Ngài nhìn xa một tầm, điều phục các căn, các cảnh ô nhiễm chấp trước đều bị đoạn trừ không còn một vết ô trược.

Rồi Ngài lại nghĩ như thế này: Hôm nay ta khất thực mà không có bình bát, khi được vật thực, biết đựng vào đâu. Nghĩ rồi, Ngài liền đi chung quanh tìm xin bát mà không có.

Bỗng thấy nơi kia có một ao sen, Ngài liền nói với người giữ ao: Xin nhân giả vui lòng cho tôi một lá sen trong ao?

Người giữ ao nghe qua liền đồng ý, vào ao ngắt lấy một lá sen dâng cho Bồ Tát. Bồ Tát nhận lá sen, rồi hướng về thành khất thực.

Lúc bấy giờ dân chúng trong ngoài thành Vương Xá quan sát tỉ mỉ cử chỉ của Bồ Tát, đồng thời lại thấy Bồ Tát có oai thần rực rỡ, thấy rồi tâm họ cho là việc quá ư hy hữu, cùng nhau bàn tán: Vị này phải chăng là vị Trời Đại Tự Tại ba mắt giáng đến xứ này?

Trong số đó có những người sắp kinh doanh sự nghiệp đi làm ăn xa phương khác, họ vừa thấy Bồ Tát liền đổi ý không đi, lại cùng nhau kéo về hướng Bồ Tát. Hoặc có người sắp làm sự việc, giữa đường thấy dung nghi của Bồ Tát họ liền bỏ sự việc hướng về Bồ Tát.

Hoặc có người đang ngồi vừa thấy Bồ Tát, bất chợt vùng dậy chạy mau đến bên Bồ Tát, hoặc có người hướng về phía Bồ Tát chắp tay cung kính. Hoặc có người cúi đầu lễ bái.

Hoặc có người dùng âm thanh tao nhã ca ngợi Bồ Tát: Lành thay! Lành thay! Ngài đến đây! Khi ấy tất cả dân chúng trong thành Vương Xá thấy Bồ Tát, không một ai mà không hoan hỷ ái mộ. Hoặc trong thành có những kẻ nhiều chuyện nói lời đảo loạn, lời phù phiếm khi đối trước Bồ Tát họ đều lặng thinh đi theo Bồ Tát.

Hoặc có già trẻ trai gái ở bốn phương thành Vương Xá, họ sắp làm những việc khác đều bỏ việc của mình đều chiêm ngưỡng Bồ Tát mắt không nháy, cho là việc chưa từng có, quan sát thân hình Bồ Tát một cách tỉ mỉ: Mặt mày mát trán, vai cổ tay chân cùng hành vi cử chỉ.

Một khi họ quán sát một nơi nào trên thân, đều ưa thích, không thể nhìn sang nơi khác. Bấy giờ Bồ Tát đang độ thiếu niên cường tráng, xinh đẹp, chính là thời kỳ tràn đầy nhựa sống sắc đẹp như nở hoa, mà lại xả bỏ cung điện xuất gia tầm đạo.

Giữa đôi chân mày của Ngài có sợi lông trắng xoay về bên phải, hai hàng lông mày dài nhỏ, đôi mắt lớn dài rộng, uy đức tỏa khắp, thân thể sáng rực, uy nghiêm đáng kính, chiếu khắp xa gần, giữa hai mươi ngón tay và chân đều có màng mỏng liên kết như mành lưới.

Ngài có tài trị hóa tất cả Nhân Thiên, oai đức thần lực của Bồ Tát bao trùm tất cả, trong thế gian không ai sánh bằng.

Có bài kệ:

Trên đường Bồ Tát ung dung bước

Quần chúng đua nhau đồng chiêm ngưỡng

Chỉ thấy ánh sáng một phần thân

Thấy rồi liền phát tâm hoan hỷ.

Đôi mày nhỏ dài như vòng nguyệt

Đôi mắt xanh đen như trâu chúa

Thân thể trong sáng tỏa hào quang

Mười ngón tay chân có màn lưới,

Người xem thấy sắc đẹp tuyệt vời

Đại chúng tự nhiên theo Bồ Tát

Chiêm ngưỡng tướng tốt thật trang nghiêm

Tất cả mọi người rất hoan hỷ.

Bấy giờ Thần thủ hộ thành Vương Xá thấy oai nghi của Bồ Tát, tâm hoảng sợ run rẩy chẳng an, thầm nghĩ: Đây là vị Đại Thần xứ nào muốn đến chỗ ở của ta?

Khi ấy Bồ Tát được vô số dân bao vây chung quanh tá hữu trước sau, để chiêm ngưỡng dung nhan Bồ Tát. Ngài đi bộ từ từ hướng về thành Vương Xá để khất thực, với y phục nghiêm chỉnh, nhất tâm định ý, chăm chú thúc liễm các căn, đôi mắt đăm chiêu nhìn xuống, hai tay nâng đỡ lá sen dùng làm bình bát, hai chân nhẹ nhàng bước đều không chậm không nhanh hướng về phía trước, lúc đi lúc đứng.

Khi cúi xuống ngước lên, nói chung mọi cử chỉ đầy đủ oai nghi ung dung, tự tại, mọi người trông thấy đều rất hoan hỷ. Ngài chứng pháp Thiền chỉ tối thượng tối thắng, tâm được điều hòa, thân thể uyển chuyển, như Tượng Vương được thuần hóa, không có điều uế trược giống như ao nước trong sạch, thân luôn luôn tỏa hào quang chung quang độ một tầm.

Như cây Sa La đang độ nở hoa, như pho tượng vàng từ đất xuất hiện, đầy đủ các tướng trang nghiêm một cách viên mãn, như mặt trăng giữa đám sao trên bầu Trời đen tối, như vầng nhật chiếu sáng cả thế gian.

Khi ấy tất cả tầng lớp dân chúng trong thành Vương Xá thấy Bồ Tát đi trên đường phố tâm họ đều hoan hỷ cho là việc chưa từng có.

Hoặc như hạng thương gia giao dịch buôn bán trong thành thì đình chỉ việc buôn bán không đến chợ. Hoặc có nơi tửu điếm bình thường có nhiều người say sưa tinh Thần điên đảo rối loạn, thì hôm nay họ đều tỉnh táo không ăn uống say sưa, bỏ tất cả yến hội ca hát, đều cùng nhau chạy nhanh đến chỗ Bồ Tát.

Hoặc có người đi theo hai bên để chiêm ngưỡng Bồ Tát. Hoặc có người chạy về phía trước xoay cổ lại xem. Hoặc có người đi đàng sau.

Lại trong thành Vương Xá có vô số phụ nữ, hoặc họ tựa bên cửa đi, hoặc đứng bên trong cửa sổ, hoặc có người ở trong lầu hay trên cao ốc mà trông, hôm đó mọi sinh hoạt thường ngày đều nghỉ cả để trông nhìn Bồ Tát.

Trong thành, nhà nhà đều mở cửa hoan hỷ đón mừng, họ cùng nhau nói:

Người này là ai?

Từ đâu đến đây?

Thuộc dòng họ nào?

Danh Hiệu là chi mà dung nhan xinh đẹp, hành động dễ cảm mến thế này?

Mà chúng ta từ xưa đến giờ chưa từng thấy tướng mạo đẹp đẽ khác thường như vậy phải chăng là Sa Môn hay Bà La Môn?

Tiếng ca tụng vang khắp trong ngoài thành.

Lúc bấy giờ Vua nước Ma Già Đà tên là Tần Đầu Sa La họ Thí Ni đóng đô tại thành Vương Xá, khi chưa lên ngôi đã mong cầu với năm nguyện: Sớm lên ngôi khi còn tuổi trẻ. Sau khi lên ngôi nguyện trong quốc độ tôi trị hóa, gặp được Đức Phật Thế Tôn xuất hiện. Nếu khi Phật xuất hiện ở đời, tôi đích thân phụng thờ cúng dường Phật.

Nếu sau khi được phụng thờ cúng dường rồi, cúi xin Phật vì tôi thuyết pháp đáp ứng như sở nguyện. Nếu Phật đã vì tôi thuyết pháp, tôi nghe pháp rồi, nguyện không hủy báng, được pháp rồi theo đó phụng hành.

Khi Vua Tần Đầu Sa La ngồi trên lầu cao có hàng Đại Thần hầu chung quanh, xa xa nhìn thấy Bồ Tát cùng đám người từ từ kéo nhau vào thành Vương Xá.

Nhà Vua vừa thoáng thấy Bồ Tát, rất đỗi ngạc nhiên, vội vã xuống lầu, mở cửa cung ra khỏi thành. Nhà Vua thấy oai nghi cử chỉ thân hình đoan chánh của Bồ Tát không ai sánh bằng giống như Mặt Trăng xuất hiện giữa đám sao trên bầu trời đen tối, được mọi người ưa thích ngắm xem, giống như ngọc Ma Ni trong ngoài trong suốt sáng rực. Tôn nhan Bồ Tát tràn đầy oai đức chói sáng trang nghiêm cũng như vậy.

Vua Tần Đầu thấy tôn nhan Bồ Tát tốt đẹp như vậy, liền bảo Quần Thần: Ta từ khi sinh ra cho đến hôm nay, chưa từng thấy người nào có mắt mũi, mặt mày, sắc thân hình dung như vậy. Trán cao rộng bằng phẳng, trong sáng phân minh, chiếu soi tỏ rõ, giống như hoa sen trong nước mà chẳng dính một tí nước.

Thân đầy oai đức, tất cả lông trên mình đều xoay về phía hữu. Giữa hai chân mày có sợi lông trắng trong sạch tợ như lưu ly hay bạch ngọc, cũng giống như bọt sữa sáng chói vô cùng, giống như ánh sáng trăng rằm. Hai bàn chân mỗi bước đi để lại trên mặt đất hình ngàn căm xe không sai lệch.

Không có trạng thái kinh hãi run sợ, trí tuệ Ngài yên tĩnh như núi Tu Di. Không biết từ đâu Ngài xuất hiện đến thành này.

Này các khanh, nến xem xét người này thuộc dòng họ nào?

Con ai?

Sinh ở nước nào?

Danh Hiệu là chi mà có hình dung tốt đẹp đáng yêu đáng mến, không biết lý do gì du hành đến đây?

Bấy giờ, trong các Đại Thần, hoặc có người cho rằng vị này là Thiên Vương, có người cho là Trời Đế Thích, có người lại cho rằng là Đại Long Vương, có người cho rằng là Vua A Tu La Tỳ Ma Chất Đa.

Có người cho rằng là Vua A Tu La Bà Lê, có người cho rằng là Thần Vương Hộ thế Tỳ Sa Môn, có người cho rằng là Nhật Thiên Tử, có người cho rằng là Nguyệt Thiên Tử, có người cho rằng là Trời Đại Tự tại, có người cho rằng là Phạm Thiên.

Lại có các bốc sư Bà La Môn tâu: Tâu Đại Vương, Ngài phải biết, theo lời dạy từ trước đến sau trong các luận của chúng tôi, thì người này nhất định là Chuyển Luân Thánh Vương.

Vì sao?

Vì hôm nay thấy thân thể vị Đại Sĩ này có đầy đủ các tướng tốt.

Trong số Đại Thần lại có người tâu: Xin Đại Vương phải biết thật có việc này.

Tại sao?

Cách đây chẳng bao xa hơn mười do tuần về phía Bắc, dưới chân núi Tuyết có dòng họ Thích. Dòng họ này có một Quốc Gia tên là Ca Tỳ La Bà Tô Đô. Vua cai trị nước này thuộc dòng họ Thích tên là Tịnh Phạn, hạ sinh một Thái Tử quý danh là Tất Đạt Đa, họ Thích còn gọi là Cù Đàm.

Ngày sinh Thái Tử, Nhà Vua liền mời các tướng sư Bà La Môn đến xem tướng. Khi các tướng sư xem xong tâu với Đại Vương.

Bạch Đại Vương, xin Ngài biết cho, Đồng Tử này đủ hai tướng: Nếu Ngài ở tại gia sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, đứng đầu trong bốn châu thiên hạ giữ gìn cõi đại địa, cho đến dùng đúng pháp trị hóa thế gian. Nếu xả bỏ vương vị, nhất định thành Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, danh tiếng vang khắp mười phương.

Bạch Đại Vương, người này chắc chắn là Thái Tử Tất Đạt Đa không còn nghi ngờ gì nữa.

Vì sao?

Vì vị ấy nay đã xả bỏ Quốc Thành xuất gia, cạo bỏ râu tóc, sắc thân như vàng ròng mặc chiếc Ca Sa du hành đến đây.

Rồi vị ấy nói kệ:

Tướng Sư nước nọ dự đoán rằng

Chẳng ở ngôi Vua ắt thành Phật

Chắc chắn người này con họ Thích

Xuất Gia khổ hạnh mong giác ngộ.

Nghe vị Đại Thần nói xong, Vua Tần Đầu Sa La suy nghĩ: Như thuở xưa ta từng phất nguyện, nếu đúng như vậy thì nguyện ta được thành tựu.

Nhà Vua liền bảo hai Đại Thần: Nếu hai khanh hiểu biết, mau đi theo dõi người xuất gia kia dừng nghỉ ở nơi nào, sau khi đã biết chỗ ở, nên cấp tốc về báo lại cho ta biết. Sau đó, ta đích thân đến chiêm ngưỡng và cúng dường thưa hỏi nhận lãnh những điều chưa từng nghe. Hai Đại Thần vâng Thánh Chỉ, cùng nhau đi theo sau Bồ Tát, không chút nào rời.

Bồ Tát ở trong thành Vương Xá, khi khất thực, nhìn thấy mọi nơi quần chúng đều đông nghịt nên suy nghĩ: Quần chúng này không nơi nương tựa, không có ai cứu giúp, thường bị sinh già bệnh chết trói mà không biết sợ hãi lo âu, lại cũng không biết cầu đạo cứu cánh, không có Đạo Sư, lại ngu si hôn ám, chìm đắm trong phiền não, ngày ngày bị tổn hại, vì si mê vô trí nên không hay biết. Do đó tham đắm thân ngũ ấm khổ, không, vô thường, mà không biết nhàm chán xa lìa.

Bồ Tát tư duy như vậy rồi, phát khởi lòng từ bi, gia tăng, tinh tấn dũng mãnh gấp bội phần, hàng phục tâm ý mình, với ý nghĩ: Ta nay sẽ làm chỗ nương tựa cho tất cả người thế gian. Ta sẽ cứu vớt sự khổ não cho thế gian. Ta sẽ vì thế gian giảng nói đến chỗ chấm dứt sinh già bệnh chết. Bấy giờ đôi mắt của Bồ Tát nhìn về phía trước chừng khoảng một đường cày, im lặng chăm chú từ từ cất bước, oai nghi tề chỉnh tuần tự khất thực khắp thành Vương Xá.

Sau khi khất thực xong, Ngài ung dung rời khỏi thành, lần lần hướng về núi Bàn Trà Bà, tiến đến gần chân núi, ngồi bên bờ một dòng suối, chánh niệm an tọa, tùy thức ăn ngon dở, như pháp mà thọ dụng.

Ăn xong Ngài xếp y, rửa tay chân, liền lên tận đảnh núi Bàn Trà, đi về phía Nam, tìm được một khu rừng có dòng suối trong mát, cây cối tươi tốt, cành lá hoa quả sum suê, có nhiều loại chim thú dạo chơi trong đó.

Ngài đến giữa những cây đại thọ trải tấm thảm cỏ ngồi kiết già mắt hướng về phương Đông, thân hình ngay ngắn, chánh ý tư duy, điềm nhiên an tọa, như sư tử bước vào trong hang không chút kinh sợ.

Thân đắp chiếc Ca Sa ánh sáng rực rỡ, dung mạo đoan nghiêm tốt đẹp, ánh sáng tỏa khắp, giống như ánh sáng mặt trời xuất hiện ban mai.

Có kệ:

Núi Bàn Trà rừng cây sầm uất

Chim thú dạo chơi rất thỏa tình

Thân đắp Ca Sa như trăng sáng

Ánh sáng tràn ngập tợ bình minh.

Bấy giờ Bồ Tát ngồi dưới gốc cây tư duy thế này: Ta nên ở nơi đây tu học: Không nhân, không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không chúng sinh, lại không chủ tể, không có thắng ngã và không dưỡng dục, cái thân ngũ ấm này tất cả đều không, không có mạng cũng không có thức.

Tất cả các pháp chỉ là giả danh gọi là chúng sinh mà thôi. Lúc ấy hai vị Đại Thần của Vua Tần Đầu Sa La, luôn luôn theo sát bên Bồ Tát. Rồi một người ngồi về phía trước cách Bồ Tát không xa, còn một người vội vã về báo tin cho Vua Tần Đầu Sa La biết.

Sứ giả đến nơi, quỳ xuống tâu Đại Vương: Thưa Đại Vương nên biết, người xuất gia đó khất thực xong rời thành Vương Xá hướng về núi Bàn Trà, sau khi thọ trai xong cho đến thân ngồi nghiêm chỉnh, mặt hướng về phương Nam như nói ở trên.

Ngày nay Đại Vương muốn chiêm bái, xin Ngài mau mau đến đó. Đại Vương Tần Đầu Sa La nghe sứ giả trình bày dứt lời, liền ra lệnh sắm sửa hành trang xa giá chỉnh tề tốt đẹp, lên xe trực chỉ về núi Bàn Trà.

Khi Vua Tần Đầu vừa đến chân núi, từ xa trông thấy thân hình đoan chánh của Bồ Tát, tâm vui thích vô cùng, nào là dung nhan như trăng sáng giữa đám sao trong bầu trời đen tối, như khối lửa khổng lồ sáng rực giữa núi rừng tối tăm, như làn điện chớp xé tan đám mây mù dày đặc. Vua nước Ma Già Đà thấy Bồ Tát ngồi dưới gốc cây cũng như vậy.

Thấy rồi Nhà Vua cho là việc quá ư hy hữu, hết sức vui mừng tràn ngập châu thân, rộn khắp cả người vội vã bước xuống xe đi bộ đến bên Bồ Tát vấn an sức khỏe, bạch Ngài: Ngài ít bệnh não, tứ đại có an ổn chăng?

Có kệ:

Vua trông Bồ Tát như Thiên Chủ

Thân thể sáng lòa lòng hoan hỷ

Vấn an sức khỏe, thân an ổn

Ít bệnh, ít buồn, thân không bệnh.

Lúc bấy giờ Bồ Tát mỉm cười, dùng giọng Phạm Thiên nói lời tao nhã dịu dàng, câu văn phân biệt, từ ngữ rõ ràng không có lời ô nhiễm thăm hỏi Vua Tần Đầu Sa La nước Ma Già: Đại Vương tốt đẹp, rất an lành, có tài trị hóa dân chúng.

Đại Vương từ nơi xa nào đến?

Xin tạm ngồi an nghỉ.

Không biết Ngài mưu cầu việc gì mà nhọc sức đến đây?

Vua Tần Đầu Sa La nghe Bồ Tát vấn an như vậy, tiến đến trước Bồ Tát, ngồi an ổn trên một phiến đá.

Nhà Vua muốn trắc nghiệm tâm Bồ Tát nên bạch: Thưa nhân giả, hôm nay nếu Ngài không từ nan mỏi mệt, cho trẫm hỏi vài lời, vì trong lòng trẫm có điều nghi ngờ, cúi xin nhân giả giải tỏa mối nghi.

Nhà Vua liền hỏi:

nhân giả là người gì?

Là Chư Thiên hay loài rồng?

Là Phạm thiên hay Đế Thích?

Là người hay Thần linh?

Với tâm không kiêu mạn, không tham dục, không sân hận để nhổ sạch tất cả gai phiền não, lại cũng không tâm dua nịnh, Bồ Tát đáp lời Vua Tần Đầu Sa La nước Ma Già: Xin Đại Vương biết cho, ta chẳng phải là Chư Thiên, chẳng phải là loài rồng, chẳng phải là Phạm Thiên ta là người. Này Đại Vương, ta muốn cầu đạo tịch tĩnh, nên bỏ ngai vàng xuất gia.

Vua Tần Đầu Sa La nước Ma Già bạch Bồ Tát: Thưa nhân giả Tỳ Kheo, thấy nhân giả lòng ta rất hoan hỷ, do vì ngày nay có điều uẩn khúc cũng do vì ta ái kính nhân giả, muốn hỏi đôi lời, cúi xin nhân giả vui lòng nghe cho.

Vì sao nhân giả đang độ thanh xuân, sức lực dồi dào khỏe mạnh, lại hình dung đoan chánh dịu dàng đẹp đẽ không ai sánh bằng, chính là thời kỳ mặc tình thọ hưởng thú vui, lại phát tâm xa lìa vương cung xuất gia làm Sa Môn, ngồi một mình trong núi vắng?

Lại nữa, nhân giả có thân hình như vậy, thật đáng thoa hương Chiên Đàn, chẳng nên đắp Ca Sa thế này. Hai tay nhân giả với những ngón có đường chỉ như bức họa, chỉ nên trị hóa dân chúng, nhận lấy đầy đủ cao lương trăm vị tùy ý thưởng thức, nào phải bưng bát đi từng nhà xin ăn.

Rồi Vua nói kệ:

Thân Ngài nên thoa hương Chiên Đàn

Chẳng nên mặc tấm Ca Sa cũ

Bàn tay Ngài chỉ đạo thế gian

Đâu phải sống hành nghề khất thực.

Vua Tần Đầu Sa La nói kệ này rồi, lại bạch Bồ Tát: Ngày nay nhân giả vì ái kính phụ vương nên không nhận vương vị, xá tục xuất gia. Nay tôi thỉnh nhân giả ở lại nước tôi thọ hưởng ngũ dục, những gì nhân giả cần dùng tôi đều xin cung cấp theo ý muốn. Như cần tiền của tôi xin cung cấp tiền của cho đến các thể nữ hầu hạ của tôi, đều cung cấp cho nhân giả.

Tôi sẽ phân đôi đất nước cho nhân giả cai trị, nhân giả có thể ở nơi đất nước tôi nhận lãnh vương vị, tôi cung phụng nhân giả không có gì thiếu hụt.

Vì sao như vậy?

Tôi nhận thấy thân thể nhân giả dịu dàng chẳng nên sống trong cảnh núi rừng vắng vẻ, lại ngồi trên đất với thảm cỏ khô, sợ e tổn thương đến sức khỏe sinh ra bệnh tật.

Xin Ngài trị vì quốc gia tôi độ một thời gian ngắn, khi nào phụ vương nhân giả già yếu, Ngài sẽ trở về bổn quốc lên ngôi Vua.

Nếu ngày nay nhân giả đoái tưởng đến tôi, thương xót đến tôi, xin nhân giả nhận lãnh vương vị, rồi ở đây cai trị. Như nhân giả tự cho mình là dòng họ tôn quý của một đại tộc, chê quốc gia tôi chật hẹp, đất đai nhơ nhớp thì tôi cùng quần Thần bá quan vạn dân, vì nhân giả mở mang bờ cõi biên cương, để quốc gia to lớn rộng rãi hơn, rồi cùng nhân giả cai trị.

Lúc đó, tôi nguyện được bang giao cùng quý tộc, kết nghĩa thâm tình như quyến thuộc. Mong nhân giả chẳng nên nghi ngờ cho là không chân thật.

Rồi Vua nói kệ:

Nhân giả tự cho dòng đại tộc

Chê nước trẫm nhỏ chẳng nhận lời

Trẫm với Đại Thần cộng bá quan

Mở mang bờ cõi thêm rộng lớn.

Lúc bấy giờ Vua nước Ma Già Đà nói kệ rồi, lại thưa Bồ Tát: Tôi có tâm ái kính tổn trọng nhân giả, mà ngày nay Ngài đi khất thực độ nhật. Ngài hãy nỗ lực phát tâm rộng rãi nhận lấy địa vị, tài sản và thú vui ngũ dục.

Vì cớ sao nhân giả lại nhận việc này?

Ở trong cung thưởng thức sắc đẹp của thể nữ vui chơi hoan lạc, đã có thể làm người hưởng phước báo thế gian, ở vị lai cũng vậy.

Nếu ngày nay Ngài không thọ hưởng ba việc này, hay xả bỏ một trong ba việc, thì trong hiện tại hay vị lai cũng không được đầy đủ phước báo. Nếu có nhận lấy cũng bị thiếu hụt.

Do vậy, nhân giả hãy phát tâm rộng rãi để thọ hưởng ba thú vui này. Thọ hưởng ba thứ vui đó, Ngài sẽ sử dụng thời thiếu niên với quả báo hình dung tuấn tú nhận lấy là địa vị, tiền tài và dục lạc. Người đàn ông ở thế gian đôi khi hưởng thọ dục là để sinh con cái thừa kế. Đây là tài sản quý báu nhất.

Cho nên nhân giả đừng để bỏ qua cơ hội!

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần