Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống

PHẬT THUYẾT

KINH NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI

QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống  

PHẦN BỐN  

Lúc ấy Thái Tử từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn ngắm các thị nữ và Da Du Đà La ngủ say bất động như các hình nhân bằng gỗ, ví như thân cây chuối rỗng xốp không chắc thật. Có người nằm ôm choàng các dụng cụ ngủ say, chân tay buông thõng xuống đất.

Lại có người say ngủ các nước dịch trong mắt, mũi, miệng ứa tràn ra. Rồi Thái Tử nội quán thấy rõ các hình hài xinh đẹp kia nào là tóc, móng tay chân, não tủy, xương răng, hộp sọ, da, mỡ, thịt, máu, mủ, tim, gan, phổi, ruột già, ruột non, thận, mật… và các loại vật ô uế như phân, nước tiểu, đờm dãi…

Bao bọc tất cả những thứ ô uế đó là một lớp da, chẳng có gì là xinh đẹp. Thế mà họ lại dùng hương, hoa, đồ trang sức để xoa ướp và trang điểm cho nó. Thân này ví như đồ vay mượn rồi phải mất, không thể tồn tại lâu được.

Con người sống trăm năm thì đã ngủ mất một nửa thời gian, còn lại là những lúc đau khổ sầu não, có mấy khi được vui. Người đời luôn nhìn thấy việc ấy nhưng tại sao không tỉnh ngộ, lại mê đắm dâm dục, nay cần phải xuất gia tu tập theo con đường của Chư Phật xưa kia để mau rời khỏi tai họa như hỏa hoạn này.

Thái Tử suy nghĩ như thế đến nửa đêm, vị Thiên Vương ở Cõi Trời Tịnh Cư và Chư Thiên ở các Cõi Trời Dục Giới hiện ra đầy khắp không trung, đồng thanh thưa với Thái Tử: Nay các quan quân và quyến thuộc trong ngoài đều đã ngủ say, chính là lúc Ngài nên xuất gia. Thái Tử liền đến chỗ Xa Nặc. Do thần lực của Chư Thiên nên Thái Tử vừa gọi là Xa Nặc liền tỉnh giấc.

Thái Tử bảo: Ngươi hãy thắng con ngựa Kiền Trắc và dắt đến đây cho ta.

Xa Nặc lúc ấy toàn thân run sợ, trong lòng do dự vì không muốn trái lời Thái Tử, nhưng cũng lại sợ nghiêm lệnh của Đức Vua nên ngẫm nghĩ hồi lâu rồi khóc thưa: Lệnh của Nhà Vua rất nghiêm, vả lại giờ này không phải giờ đi du ngoạn, cũng không phải lúc ngăn chặn địch quân, vậy trong đêm thanh vắng này, Thái Tử muốn thần thắng ngựa để đi đâu?

Thái Tử nói: Ta nay muốn diệt trừ mọi kết sử phiền não cho tất cả chúng sinh. Vậy ngươi không nên trái ý ta. Xa Nặc liền khóc lớn có ý làm cho Da Du Đà La cùng với quan quân quyến thuộc tỉnh giấc nhưng do thần lực của Chư Thiên nên mọi người vẫn ngủ say không ai hay biết gì. Xa Nặc đành dắt ngựa đến. Thái Tử bước đến bảo Xa Nặc và ngựa Kiền Trắc.

Tất cả mọi sự yêu thương, hễ có sum họp phải có chia ly. Đó là lẽ thường tình của thế gian, nếu không thế thì việc xuất gia khó mà thành được.

Xa Nặc nghe những lời ấy lặng thinh không nói, Kiền Trắc cũng không cất tiếng hí.

Bấy giờ thấy Trời gần sáng, Thái Tử liền từ thân phóng hào quang chiếu sáng khắp mười phương, cất tiếng oai hùng như Sư Tử nói: Chư Phật trong quá khứ đã xuất gia như thế nào, ta nay cũng như vậy. Chư Thiên liền nâng bốn vó ngựa và cả Xa Nặc, còn Trời Đế Thích cầm lọng đi theo, Chư Thiên làm cho cửa thành phía Bắc tự nhiên mở ra mà không gây tiếng động. Thái Tử ra khỏi thành, Chư Thiên tháp tùng theo sau ca ngợi.

Và lúc ấy Thái Tử cất tiếng hùng như Sư Tử phát lời thệ nguyện: Nếu ta không dứt trừ được sinh, lão, bệnh, tử và khổ đau sầu não cho cả thế gian, trọn đời ta sẽ không trở về cung.

Nếu không chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân độ chúng sinh thì ta không trở về gặp Phụ Vương. Nếu không dứt được tình ân ái thì không bao giờ ta gặp lại dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề và Da Du Đà La.

Lời nguyện của Thái Tử vừa phát ra, Chư Thiên trên hư không đồng thanh ca ngợi: Quý hóa thay! Lời nguyện ấy nhất định sẽ thành tựu. Trời vừa sáng tỏ, Thái Tử đã đi được ba do tuần. Chư Thiên tháp tùng theo Thái Tử đi đến đó thấy công việc đã xong nên liền biến mất. Sau đó, Thái Tử lần bước đi tới khu rừng có Tiên Nhân Bạt Già đang tu khổ hạnh.

Thấy khu rừng thanh vắng Thái Tử rất vui mừng, thân tâm khoan khoái nhẹ nhàng liền xuống ngựa, vỗ lên lưng ngựa Kiền Trắc an ủi: Việc gian khó nhất ngươi đã vượt qua.

Thái Tử lại nói với Xa Nặc: Ngựa Kiền Trắc đi nhanh như Kim Sí Điểu, Vua của loài chim, ngươi vẫn luôn theo ta không rời. ta từng suy ngẫm ở đời có người lòng lành mà bề ngoài trông như ác, có người bề ngoài xem hiền lành nhưng tâm lại không thế, còn ngươi thì tâm và thân không trái nhau.

Trong thế gian có người vì ham giàu sang mà suốt đời bám víu. Nay ta bỏ Vương Quốc đến khu rừng này chỉ có một mình ngươi đi theo, quả thật là hiếm có. Nay ta đã đến nơi vắng vẻ yên tịnh rồi, ngươi nên dắt ngựa Kiền Trắc trở về cung.

Xa Nặc nghe Thái Tử nói thế buồn bã khóc than đến nỗi quỵ ngã xuống đất, còn ngựa Kiền Trắc thì quỳ hai chân trước, cúi đầu liếm chân Thái Tử, đôi dòng lệ tuôn tràn.

Xa Nặc thưa: Nay thần làm sao nghe theo lời Thái Tử được, bởi vì thần đã trái lệnh của Đức Vua, dắt ngựa đưa Thái Tử đến đây. Vua và phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề mất Thái Tử chắc chắn sẽ rất đau khổ, trong cung cũng sẽ náo động vì việc Thái Tử ra đi.

Hơn nữa, ở đây rừng sâu hiểm trở, thú dữ, trùng độc cùng bao nhiêu nguy hiểm khác nay thần nỡ nào rời xa Thái Tử, một mình trở về cung.

Thái Tử đáp: Khi sinh ra, ta cũng một mình và khi chết tất cũng một mình, đâu có bạn bè, vả lại trong đời có bốn điều khổ lớn là sinh, lão, bệnh, tử, lẽ nào ta làm bạn với chúng.

Nay ta vì muốn trừ dứt hẳn những nỗi khổ ấy nên mới đến đây. Sau khi đã đoạn tận khổ đau, ta sẽ là bạn với tất cả chúng sinh, còn nay ta chưa xa lìa khổ được thì làm sao có thể làm bạn với ngươi.

Xa Nặc lại thưa: Từ khi sinh đến nay, Thái Tử luôn ở nơi cung cấm, thân thể tay chân đều mềm yếu, ngủ nghỉ có giường nệm êm ái, không hề có chút gì khó chịu, bỗng chốc đến ở nơi núi non, nằm nghỉ trên gai góc sỏi đá, lại ngồi dưới bóng cây, sao mà chịu được?

Thái Tử bảo Xa Nặc: Đúng như ngươi nói, ta ở trong cung không bao giờ phải nằm trên gai góc, nhưng nỗi khổ sinh già bệnh chết có tránh được không?

Xa Nặc nghe Thái Tử nói thế chỉ biết đứng lặng câm, đôi dòng lệ giàn giụa, lòng đau đớn vô cùng.

Bấy giờ Thái Tử đến bên Xa Nặc lấy thanh gươm báu rồi cất tiếng oai vệ như tiếng Sư Tử nói: Chư Phật trong quá khứ khi đắc quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác đã xả bỏ trang sức, cạo râu tóc, nay ta cũng phải làm đúng theo pháp của Chư Phật.

Nói rồi Thái Tử lấy mũ và hạt ngọc trên búi tóc trao cho Xa Nặc bảo: Ngươi hãy đem mũ và viên ngọc này về cho Phụ Vương ta và quỳ dưới chân người tâu rằng: Ta nay không phải vì muốn sinh lên Cõi Trời để hưởng lạc thú. Cũng không phải là người con bất hiếu, không phải vì giận hờn mà ra đi, ta ra đi chỉ vì nhàm chán và muốn dứt nỗi khổ sinh già bệnh chết.

Ngươi nên vui mừng với niềm vui của ta, xem như gặp điều lành, chớ có buồn rầu. Nếu cha ta có ý bảo ta xuất gia chưa đúng lúc, ngươi hãy thưa lại lời nói của ta với Vua cha là bệnh già chết đâu có hẹn ngày, dù tuổi trẻ thanh tráng cũng không thể thoát được.

Nếu Vua trách ta chưa có con và chưa trình tâu mà đã rời bỏ cung điện xuất gia thì người tâu cho Vương phụ rõ Da Du Đà La đã mang thai, Vua hỏi nàng sẽ rõ.

Trước đây Phụ Vương đã ra lệnh như thế chứ ta không tự ý. Xưa kia các vị Chuyển Luân Thánh Vương rời bỏ cung vào rừng tu hành, không có ai nửa chừng trở lại thọ hưởng năm dục, nay ta xuất gia cũng như vậy.

Nếu chưa đạt được đạo bồ đề, ta sẽ không về cung. Đối với tất cả những thân thuộc nội ngoại có tình yêu thương với ta, ngươi hãy an ủi giúp ta để họ khỏi buồn rầu thương nhớ.

Thái Tử lại cởi xâu chuỗi anh lạc trên người trao cho Xa Nặc và dặn: Ngươi hãy đem chuỗi này về dâng lại cho dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề và thưa rằng ta vì muốn giải thoát bao nỗi khổ ở đời nên xuất gia để hoàn thành chí nguyện ấy. Vậy chớ vì ta mà buồn khổ.

Thái Tử lại tháo bỏ tất cả trang sức còn lại trên thân đưa cho Xa Nặc bảo đem về trao cho Da Du Đà La và cũng an ủi: Ở đời hễ yêu thương mà xa nhau là khổ, nay ta vì muốn dứt khổ nên mới xuất gia học đạo, chớ vì ta mà đau buồn. Đối với những người thân thuộc cũng vậy.

Xa Nặc nghe xong trong lòng càng đau buồn, nhưng không thể trái lời của Thái Tử nên quỳ xuống nhận mũ, chuỗi ngọc anh lạc và những đồ trang sức khác rồi ứa lệ thưa: Thần nghe chí nguyện của Thái Tử mà toàn thân rúng động, ngay những kẻ lòng như gỗ đá nghe những lời ấy cũng còn thương cảm.

Huống chi thần đã bao năm hầu hạ Thái Tử, nay nghe những lời ấy tránh sao khỏi đau đớn trong lòng. Xin Thái Tử hãy từ bỏ chí nguyện ấy để Đức Vua, phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề và chánh phi Da Du Đà La cùng với bao vị quyến thuộc khác khỏi phải sầu đau khổ sở. Nếu Thái Tử nhất định không đổi ý thì chớ bỏ thần.

Thần nay nguyện xin nương theo gót Thái Tử trọn Đời không rời bởi nếu về cung chắc chắn Đức Vua sẽ quở trách thần sao lại để Thái Tử ở một mình nơi rừng vắng mà về thì thần tâu làm sao với Đức Vua?

Thái Tử đáp: Ngươi không nên nói thế. Ở đời luôn có sự chia lìa, đâu phải lúc nào cũng sum họp. Ta vừa sinh ra bảy ngày thì mẹ ta đã qua đời, mẹ con còn chia lìa huống chi là người khác. Ngươi chớ riêng vì ta mà quyến luyến, nên cùng Kiền Trắc trở lại Hoàng Cung.

Thái Tử ra lệnh đến lần thứ hai mà Xa Nặc vẫn không chịu ra về.

Lúc ấy Thái Tử liền dùng kiếm tự cạo bỏ râu tóc và phát lời thệ nguyện: Nay ta dứt bỏ râu tóc nguyện đoạn trừ tất cả phiền não và bao tập khí chướng ngại.

Trời Đế Thích liền nhận lấy tóc đem đi, Chư Thiên trong hư không đốt hương, tung hoa xuống và đồng lên tiếng khen ngợi: Lành thay! Thật là tốt lành! Thái Tử đã cạo bỏ râu tóc.

Lúc bấy giờ nhìn lại trên thân mình vẫn vận y phục bằng bảy báu, Thái Tử suy nghĩ: Chư Phật trong quá khứ khi xuất gia không thể mặc như thế này. Bấy giờ vị Trời Tịnh Cư biết ý nghĩ ấy nên hóa thân thành một người thợ săn mình mặc Cà Sa đi đến trước Thái Tử.

Thái Tử trông thấy vô cùng vui mừng nói với người thợ săn: Chiếc áo ông đang mặc là y thanh tịnh của Chư Phật trong quá khứ đã vận.

Sao ông lại mặc áo này mà làm việc tội ác?

Người thợ săn đáp: Tôi mặc Cà Sa để dụ bầy nai, chúng thấy Cà Sa đều đến gần bên tôi, tôi mới bắn chúng được.

Thái Tử bảo: Theo lời ông nói thì ông mặc Cà Sa chỉ vì muốn giết hại bầy nai chứ không phải vì cầu giải thoát. Nay ta đổi cho ông chiếc áo bằng bảy báu này, ta mặc Cà Sa chỉ vì muốn dứt trừ phiền não và cứu độ tất cả chúng sinh.

Người thợ săn liền nói: Hay lắm! Xin vâng theo lời của Ngài. Hai người bèn đổi áo cho nhau. Thái Tử vận Cà Sa vào giống như Chư Phật trong quá khứ. Vị Thiên Tử Cõi Trời Tịnh Cư cũng hiện trở lại thân Trời, bay lên không trung trở về Thiên Cung.

Trong không trung lúc bấy giờ hiện ra một vầng sáng lạ, Xa Nặc thấy thế ngạc nhiên khen là chuyện chưa từng có vì điềm lành ấy chẳng phải là việc bình thường.

Xa Nặc thấy Thái Tử đã cạo bỏ râu tóc, vận pháp phục thì biết rõ Thái Tử nhất định không bao giờ đổi ý nên trong lòng càng đau khổ, buồn rầu đến nỗi lại quỵ ngã xuống đất.

Thái Tử khuyên: Ngươi nên bớt sầu khổ bi lụy, trở về thành báo cho mọi người biết ý của ta. Nói xong Thái Tử thong thả cất bước về phía trước.

Xa Nặc sụt sùi rơi lệ, cúi đầu lạy theo Thái Tử cho đến khi không còn trông thấy người nữa mới đứng lên run rẩy quay nhìn Kiền Trắc và những đồ trang sức mà Thái Tử để lại, lòng càng buồn nhớ, nước mắt tuôn trào, tay dắt ngựa, tay cầm những đồ trang sức ấy rồi cả người ngựa đều buồn bã theo đường cũ trở về Kinh Thành.

Cùng lúc ấy Thái Tử đã tới nơi tu hành của Tiên Nhân Bạt Già. Các loài chim, thú trong rừng nhìn thấy Thái Tử đều sững sờ không chớp mắt, đứng yên không bay chạy.

Tiên Nhân Bạt Già trông thấy Thái Tử từ xa liền suy nghĩ: Vị Thần nào kìa?

Phải chăng là Trời Nhật nguyệt, hay Vua Trời Đế Thích?

Tiên Nhân cùng với thân hữu vội ra nghênh đón Thái Tử rất tôn kính, thưa: Kính chào Nhân Giả. Thái Tử thấy các vị Đạo Sĩ tính tình hòa nhã, dáng vẻ khiêm tốn liền đi đến chỗ họ. Các vị Đạo Sĩ không ai không phục sắc tướng uy nghiêm của Thái Tử nên cùng đến mời Ngài ngồi.

Sau khi ngồi xong, Thái Tử quan sát cách tu của các Đạo Sĩ thì thấy có người dùng cỏ làm áo mặc. Có người dùng vỏ cây hoặc lá cây làm quần áo. Người thì chỉ ăn rau trái.

Có người ăn một ngày một bữa, người thì hai, ba ngày một bữa. Họ sống khổ hạnh như thế để thờ thần nước, thần lửa hoặc thờ mặt trời, mặt trăng. Có người đứng co một chân. Có người nằm mãi trên đất. Hoặc nằm trên gai góc, bên nước lửa.

Thái Tử thấy lối tu khổ hạnh như thế liền hỏi Tiên Nhân Bạt Già: Các vị tu khổ hạnh như thế thật là lạ lùng nhưng để cầu được gì?

Tiên Nhân đáp: Chúng tôi tu các pháp khổ hạnh ấy vì muốn được sinh lên Cõi Trời.

Thái Tử lại hỏi: Chư Thiên tuy vui nhưng khi hết phước vẫn luân hồi trong sáu nẻo, cuối cùng vẫn chịu khổ.

Sao các vị tu cái nhân khổ để hưởng cái quả khổ như thế?

Thái Tử trong lòng buồn bã, thầm nghĩ: Người đi buôn vì muốn có của báu nên đi vào biển cả nguy hiểm. Nhà Vua vì muốn mở rộng đất nước mà cử binh giao chiến, nay các Đạo Sĩ này vì muốn lên Cõi Trời mà tu khổ hạnh. Nghĩ như thế rồi Thái Tử đứng lặng yên không nói.

Đạo Sĩ Bạt Già thấy Thái Tử yên lặng nên hỏi: Thưa Nhân giả, ý Ngài như thế nào?

Sao lại yên lặng không nói gì?

Có phải cách tu của chúng tôi không đúng chăng?

Thái Tử đáp: Các vị chọn con đường tu thật đau khổ để cầu phước báo nhưng cuối cùng vẫn không thoát được khổ. Thái Tử cùng các vị Đạo Sĩ thảo luận cho đến chiều tối, đêm ấy Thái Tử ngủ lại nơi đó.

Trời vừa sáng, Thái Tử nghĩ: Những vị Tiên Nhân này chọn con đường tu khổ hạnh nhưng chẳng phải là con đường giải thoát chân chánh, vậy ta không nên ở đây. Thái Tử liền từ biệt các vị Tiên Nhân ấy.

Các Tiên Nhân hỏi: Nhân giả đến đây, chúng tôi đều vui mừng, khiến uy thế chúng tôi tăng thêm.

Nay sao đột nhiên Ngài lại muốn đi nơi khác làm cho chúng tôi bị giảm bớt uy thế, hay là trong chúng tôi có ai xúc phạm đến Ngài?

Hay vì việc gì khác nên Ngài không ở lại?

Thái Tử đáp: Không phải các vị thất lễ trong giao tiếp chủ khách, mà vì cách tu tập của các vị chỉ làm tăng trưởng thêm sự khổ đau. Nay tôi học đạo là vì muốn diệt trừ tận gốc khổ đau, do đó muôn đi nơi khác.

Các Đạo Sĩ nói với nhau: Con đường tu tập của vị ấy thật là rộng lớn, chúng ta làm thế nào mà giữ người ở lại được?

Lúc ấy trong số các Đạo Sĩ có một người coi tướng giỏi nói với các Đạo Sĩ kia: Vị nhân giả này có đủ các tướng tốt, chắc chắn sẽ đạt được nhất thiết chủng trí, sẽ là bậc Đạo Sư của cả Trời người.

Các vị Đạo Sĩ nghe thế liền cùng đến trước Thái Tử thưa: Vì con đường tu hành có khác nhau nên không dám lưu Ngài ở lại. Nếu Ngài muốn đi, nên đi về phương Bắc, nơi ấy có hai vị Đại Tiên tên là A La La và Ca Lan. Nhân giả hãy đến đó thảo luận với các vị Đại tiên ấy, nhưng chúng tôi nghĩ là Nhân giả cũng không nên ở lại nơi ấy lâu.

Thái Tử nghe nói thế liền từ tạ đi về hướng Bắc. Các Đạo Sĩ nhìn Thái Tử ra đi trong lòng rất buồn nên cùng nhau chắp tay đi theo tiễn đưa Ngài, nhìn theo cho đến khi Ngài đi khuất mới quay trở lại. Từ lúc Thái Tử rời Hoàng Cung cho đến Trời chiều, Da Du Đà La và các cung nữ mới thức dậy.

Không trông thấy Thái Tử, tất cả đều hoảng hốt than khóc, vội vàng đến báo với phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề: Sáng nay bỗng không tìm thấy Thái Tử đâu cả. Di mẫu nghe thế hoảng hốt, mê loạn ngã quỵ xuống đất, ngất đi tỉnh lại mấy lần. Khi tỉnh lại, bà vội đến chỗ Vua báo tin.

Vua nghe xong ngồi lặng đi không nói được một lời, toàn thân rã rời như kẻ mất hồn. Cả trong lẫn ngoài cung, ai nghe cũng rụng rời.

Lúc ấy các quan Đại Thần vội đến cung của Thái Tử và tuần hành khắp Kinh Thành tìm kiếm, đến cổng thành phía Bắc thấy cửa thành tự nhiên mở toang, lại cũng không trông thấy Xa Nặc và ngựa Kiền Trắc liền hỏi các quan phụ trách rằng ai đã mở cửa, nhưng mọi người đều nói là không biết, hỏi ngay người giữ cửa cũng không biết vì sao cửa tự nhiên mở.

Các vị Đại Thần nghĩ cửa thành phía Bắc mở chắc chắn Thái Tử đi ra cửa ấy, vậy phải mau đi tìm, liền sai một ngàn cỗ xe, một vạn kỵ binh bủa ra bốn hướng tìm kiếm, nhưng vì thần lực của Chư Thiên nên không ai tìm ra được đường Thái Tử đã đi.

Họ trở về tâu Vua đã tìm Thái Tử khắp nơi nhưng không gặp.

Lúc ấy Xa Nặc đi bộ dắt ngựa Kiền Trắc, mang những đồ trang sức quý báu của Thái Tử vừa đi vừa khóc hướng về cửa thành.

Dân chúng các làng bên đường thấy thế rất kinh ngạc, ai cũng buồn bã cùng nhau chạy đến hỏi Xa Nặc: Ông đưa Thái Tử đi đâu mà sao nay chỉ có một mình ông và ngựa Kiền Trắc trở về như thế?

Xa Nặc nghe mọi người hỏi càng thêm đau buồn không thể nói được thành lời. Dân chúng thấy ngựa Kiền Trắc được mang đai thắng yên bằng bảy báu rất trang nghiêm mà không thấy Thái Tử chẳng khác hoa đẹp trang điểm trên xác chết.

Xa Nặc vừa đi vào thành, ngựa Kiền Trắc bỗng cất tiếng hí buồn bã khiến bầy ngựa trong chuồng cũng lên tiếng hí vang.

Các quan bên ngoài vội vào cung thưa với phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề và chánh phi Da Du Đà La chỉ có Xa Nặc cùng ngựa Kiền Trắc trở về.

Hai người nghe thế vô cùng đau khổ nghĩ: Tại sao nghe báo Xa Nặc và ngựa Kiền Trắc trở về mà không nghe nói đến Thái Tử.

Phu Nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề than thở: Ta nuôi Thái Tử từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành vậy mà trong thoáng chốc Thái Tử đã bỏ ta không biết đi về phương nào, khác chi trái cây chín rời cành, lại khác chi người đói gặp bữa cơm thịnh soạn đang muốn ăn bỗng bị đổ đi tất cả.

Da Du Đà La cũng cất lời thống thiết: Thiếp cùng Thái Tử đi đứng nằm ngồi không rời một bước, nay người bỗng bỏ thiếp không biết đi về đâu. Các Vua ngày xưa, khi bỏ ngôi vào núi học đạo đều dẫn theo vợ con không nỡ chia lìa.

Người ở đời, một lần gặp biết nhau, khi chia tay còn không quên nhau, nay tình ân ái vợ chồng vốn sâu nặng mà sao người lại bạc bẽo như thế.

Công chúa quay lại mắng Xa Nặc: Thà làm kẻ thù của người có trí còn hơn là thân thuộc với người ngu, ngươi là kẻ ngu si ám độn, lén đưa Thái Tử đến nơi nào để cho họ Thích không còn thịnh vượng được nữa.

Lại trách ngựa Kiền Trắc: Ngươi chở Thái Tử rời cung, lúc gần đi sao không lên tiếng, giờ một mình quay về lại hí lên buồn bã.

Xa Nặc liền thưa: Xin phu nhân chớ trách thần và ngựa Kiền Trắc. Đó là do thần lực của Chư Thiên chứ không phải người làm được. Đêm ấy khi phu nhân cùng thể nữ đều ngủ say, Thái Tử ra lệnh cho thần thắng ngựa.

Lúc ấy thần đã lớn tiếng khuyên can Thái Tử, có ý muốn cho phu nhân và các thể nữ giật mình tỉnh giấc. Đến khi thần thắng ngựa Kiền Trắc cũng không ai hay.

Trước đây cổng thành mỗi lần mở, tiếng vang đến bốn mươi dặm, nhưng lúc ấy cửa tự mở toang không có một tiếng động, những việc như thế chẳng phải là do thần lực của Chư Thiên sao?

Đến khi ra khỏi thành, Chư Thiên đã nâng vó ngựa và cả thần bay lên không trung, lại có vô số Chư Thiên đi theo, vậy thần làm sao ngăn cản được?

Trời vừa rạng sáng thì Thái Tử đi được ba do tuần, đến chỗ của Đạo Sĩ Bạt Già lại có những chuyện kỳ lạ xảy ra. Xin phu nhân lắng nghe lời thần kể.

Khi Thái Tử đến khu rừng của Tiên Nhân Bạt Già đang tu khổ hạnh, người liền xuồng ngựa vỗ vào lưng ngựa Kiền trắc và ra lệnh cho thần trở về cung. Lúc ấy thần cứ đi theo Thái Tử, không chịu trở về.

Thái Tử nhất định không cho thần ở lại, lấy gươm báu rồi tuyên bố rằng Chư Phật quá khứ vì muốn đắc đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác đều bỏ những trang sức quý báu, cắt bỏ râu tóc, nay Ngài cũng theo như Chư Phật trong quá khứ.

Nói xong Ngài liền cởi mão và lấy hạt minh châu đưa cho thần bảo đem về dâng Vua, lại đưa chuỗi anh lạc bảo đem về dâng cho di mẫu, còn các trang sức khác thì bảo trao lại cho phu nhân. Lúc đó dù nghe Ngài hối thúc nhưng lòng thần không muốn trở về. Thái Tử liền dùng gươm tự cắt bỏ râu tóc và được Chư Thiên đến tiếp lấy tóc đem đi.

Thái Tử đi tới trước một đoạn thì gặp một người thợ săn, liền lấy áo thất bảo của mình đổi lấy y Cà Sa mà người thợ săn đang mặc.

Lúc ấy trên Hư Không có luồng ánh sáng rất lớn. Thần thấy Thái Tử đã thay đổi y phục, biết rõ Thái Tử nhất quyết không về nữa, lòng thần vô cùng đau đớn. Thái Tử đi đến chỗ Tiên Nhân Bạt Già đang tu, thần đành từ biệt trở về.

Những sự lạ lùng ấy đều do sức thần của Chư Thiên làm ra chứ con người làm sao mà làm được, vậy xin phu nhân khiển trách thần và Kiền Trắc.

Khi đó phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề và Da Du Đà La nghe Xa Nặc kể những việc lạ lùng ấy xong, trong lòng đã đôi phần tỉnh ngộ nên im lặng không nói.

Khi Nhà Vua vơi bớt đau đớn buồn bã, liền kêu Xa Nặc hỏi: Tại sao ngươi làm khổ dòng họ Thích như thế. ta đã nghiêm lệnh cho mọi người trong ngoài giữ gìn Thái Tử chỉ e sợ Thái Tử xuất gia.

Sao ngươi lại lén thắng ngựa Kiền trắc và ra đi cùng Thái Tử?

Xa Nặc nghe lời Vua quở trách run sợ vội tâu: Thái Tử rời khỏi hoàng thành đi không phải lỗi tại thần, xin Đại Vương hãy nghe thần kể đầu đuôi.

Nói xong Xa Nặc liền lấy mũ báu, hạt minh châu đặt dưới chân Vua rồi thưa: Thái Tử bảo thần đem mũ và hạt minh châu này về dâng lên Bệ Hạ, xâu chuỗi anh lạc thì dâng cho di mẫu, còn các đồ trang sức khác thì trao cho chánh phi Da Du Đà La.

Vua thấy những thứ ấy lòng càng buồn nhớ Thái Tử không nguôi, đến gỗ đá còn phải động lòng huống chi tình cảm cha con sâu nặng.

Xa Nặc thuật lại toàn bộ sự việc đã xảy ra cho Vua nghe và tâu: Thái Tử truyền lệnh cho thần là nếu Đại Vương cho là cần có con nối dõi rồi mới xuất gia, nay chưa có con sao đã xuất gia thì thưa với Bệ Hạ rằng vào lúc ra đi Thái Tử chưa tâu cho Bệ Hạ rõ là chánh phi Da Du Đà La đã có thai rồi, Bệ Hạ nên hỏi nàng. Trước kia Bệ Hạ đã hứa như thế, nay Ngài đã thực hiện đúng như vậy chứ không phải Ngài tự tiện ra đi.

Vua nghe thế liền cho mời Da Du Đà La đến hỏi: Thái Tử bảo con đã có thai, phải đúng như vậy không?

Da Du Đà La liền thưa Vua: Vào hôm Đại Vương đến cung, Thái Tử lấy tay chỉ vào con, con lập tức cảm thấy trong người khác lạ nên biết mình đã thụ thai.

Vua nghe thế lấy làm lạ, lòng ưu sầu có giảm bớt, thầm nghĩ: Lúc ấy ta hứa như thế là nghĩ chỉ trong bảy ngày làm sao có con được và như vậy ngôi Chuyển Luân Vương tự nhiên sẽ đến, không ngờ chưa hết bảy ngày mà Da Du Đà La đã có mang thật là do lỗi ta thiếu trí, vì muốn tìm cách lưu Thái Tử nên hứa như thế, giờ càng hối hận.

Thái Tử mưu trí vượt ngoài sự dự liệu của người khác. Việc này còn có thần lực của Chư Thiên, nay ta không nên trách Xa Nặc.

Vua nghĩ Thái Tử quyết không về thì dù có làm cách gì cũng không đưa Thái Tử về được. Tuy Thái Tử xuất gia học đạo nhưng nay đã có người nối dõi không sợ Vương Tộc tuyệt hậu. Hiện nay cần phải bảo Da Du Đà La nên giữ gìn cẩn thận đứa con trong bụng.

Vua Bạch Tịnh vì quá nặng tình cha con nên nói với Xa Nặc: Nay ta nhất định cho đi tìm Thái Tử nhưng không biết Thái Tử đang ở đâu. Thái Tử bỏ ta đi học đạo, ta làm sao có thể sống một mình. ta nhất định phải đi tìm Thái Tử.

Lúc ấy Quốc Sư và một vị Đại Thần nghe Vua muốn đi tìm Thái Tử liền đến can ngăn: Đại Vương chớ quá buồn phiền. Chúng tôi thấy tướng mạo của Thái Tử chắc là trong đời quá khứ đã nhiều kiếp xuất gia tu học nên ngay ngôi vị Đế Thích cũng không muốn huống chi là ngôi Chuyển Luân Vương làm sao giữ chân Thái Tử được.

Đại Vương không nhớ lúc mới sinh, Thái Tử đã từng đi bảy bước, chỉ tay lên cao mà nói: Ta không còn chuyển sinh nữa, đây là thân sau cùng. Lúc ấy các vị Trời Phạm Thiên, Đế Thích đều đến chúc mừng, có điều kỳ diệu như vậy thì Thái Tử đâu còn lưu luyến cõi trần, vả lại tiên A Tư Đà đã từng xem tướng cho Thái Tử và quả quyết là năm mười chín tuổi Thái Tử sẽ xuất gia học đạo và sẽ thành bậc Nhất Thiết chủng trí.

Ngày nay sự việc xảy ra đều đúng, Đại Vương sao còn sầu khổ như thế. Hơn nữa Đại Vương đã từng ra nghiêm lệnh cho quan quân trong và ngoài thành giữ gìn Thái Tử sợ Thái Tử xuất gia nhưng rồi Chư Thiên đã đến đưa Thái Tử ra khỏi thành, như thế thì sức người làm sao ngăn cản được.

Vậy xin Đại Vương nên vui mừng, đừng mãi ôm lòng buồn phiền và không nên ra đi tìm Thái Tử, còn nếu Bệ Hạ lo lắng cho Thái Tử thì chúng tôi sẽ đi tìm xem Thái Tử hiện nay đang ở đâu.

Vua nghe lời can ngăn bèn suy nghĩ: Ta biết Thái Tử không về, lòng ta không thể quên được nhưng cũng chẳng thể tìm kiếm được, vậy ta nay phải nhờ Quốc Sư và quan Đại Thần đi xem sao.

Nghĩ xong Nhà Vua liền đáp: Lành thay! Các khanh hãy lên đường tìm Thái Tử giúp ta. Mọi người ở trong và ngoài cung đều đang sầu khổ, vậy hai khanh không nên chậm trễ. Quốc Sư và vị Đại Thần liền từ giã Đức Vua ra đi tìm Thái Tử.

Bấy giờ Vua Bạch Tịnh sau khi đã truyền lệnh cho Quốc Sư và quan Đại Thần đi tìm Thái Tử, liền lấy xâu chuỗi anh lạc của Thái Tử trao cho phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề nói:

Đây là xâu chuỗi anh lạc của Thái Tử đeo trao cho Xa Nặc đem về giao lại cho khanh.

Phu Nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề trông thấy xâu chuỗi lòng càng đau khổ, tự nghĩ: Trong cuộc đời này, chỉ ta là người bạc phước nhất vì đã mất một vị Chuyển Luân Thánh Vương đầy trí sáng suốt.

Vua lại đưa những đồ trang sức còn lại cho Da Du Đà La bảo: Thái Tử bảo đưa trang sức này cho con. Da Du Đà La nhìn thấy những món trang sức ấy liền ngã ra đất ngất lịm, Vua liền cho người đỡ dậy, an ủi, và dặn chánh phi phải tự bảo trọng đừng quá đau khổ mà ảnh hưởng không tốt đến thai nhi.

Khi Quốc Sư và quan Đại Thần đến khu rừng tu khổ hạnh của vị Tiên Nhân Bạt Già, họ liền bỏ nghi trượng và cho đoàn người tùy tùng dừng lại bên ngoài rừng, chỉ hai người đi tới chỗ vị Đạo Sĩ.

Vị Đạo Sĩ mời hai người ngồi, cùng chào hỏi xong, vị Quốc Sư lên tiếng thưa: Tôi là Quốc Sư của Vua Bạch Tịnh, nay đến đây là vì Nhà Vua có một Thái Tử nhưng Thái Tử chán cảnh khổ sinh già bệnh chết nên đã đến vùng này xuất gia học đạo.

Xin hỏi Đạo Sĩ có gặp không?

Tiên Nhân Bạt Già đáp: Gần đây chúng tôi có gặp một chàng trai trẻ dung mạo rất trang nghiêm, đầy đủ tướng tốt, đến khu rừng này cùng tôi bàn luận và ngủ lại một đêm, không ngờ đó lại là Thái Tử. Vì cho đạo chúng tôi thô thiển nên người đã đi về hướng Bắc, đến chỗ Đạo Sĩ A La La và Ca Lan.

Hai người nghe vị Đạo Sĩ nói thế liền vội vã từ giã đi về hướng Bắc nơi hai vị Tiên Nhân kia cư ngụ.

Hai người đi được giữa đường thì thấy Thái Tử từ xa đang ngồi tĩnh tọa dưới bóng cây, tướng tốt rạng rỡ như mặt Trời mặt Trăng, nên vội xuống ngựa, để lại nghi trượng cùng người tùy tùng, đi đến chỗ Thái Tử và ngồi sang một bên.

Sau khi chào hỏi xong, vị Quốc Sư thưa: Đại Vương sai chúng tôi đi tìm Thái Tử có điều muốn thưa với Thái Tử.

Thái Tử hỏi: Phụ Vương sai các vị đến nói điều gì?

Vị Quốc Sư thưa: Đại Vương từ lâu đã biết Thái Tử muốn xuất gia, ý định đó khó thay đổi nhưng lòng Vua đối với Thái Tử tình còn sâu nặng nên lo rầu nung nấu dường như lửa đốt, mong Thái Tử trở về để dập ngọn lửa ưu sầu phiền muộn.

Cúi xin Thái Tử hãy trở về. Dù nơi Vương cung có nhiều chướng ngại nhưng không để cho Thái Tử mất đạo nghiệp, bỏ sự tĩnh tâm, cần gì phải vào rừng núi.

Hiện nay phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề và chánh phi Da Du Đà La cùng tất cả họ hàng nội ngoại đang đắm chìm trong biển nhớ thương, mong Thái Tử trở về cứu vớt họ Thái Tử nghe Quốc Sư nói thế bèn cất tiếng tha thiết trả lời: Có lẽ nào ta lại không biết tình cảm sâu nặng của Phụ Vương đối với ta sao?

Ta chỉ vì sợ cái khổ do sinh già bệnh chết nên đến đây tìm học đạo để dứt trừ chúng.

Nếu yêu thương mà sum họp mãi mãi, không có sinh già bệnh chết thì ta đến đây làm gì?

Nay ta xa Phụ Vương là muốn trong tương lai sẽ được sum họp. Hiện nay Phụ Vương tuy bị lửa buồn rầu thiêu đốt, đời nay ta và Phụ Vương ta chỉ có nỗi khổ ấy, nhưng mai sau sẽ trừ diệt được mối lo đó.

Nếu theo lời ông nói, muốn ta cứ ở trong cung mà tu hành thì chẳng khác nào ngôi nhà thất bảo đang bị bốc cháy, có người nào có thể ở trong đó được không?

Giống như món ăn có độc thì người đói cũng không thể ăn. Ta đã lìa bỏ Vương Quốc xuất gia tu hành, vì sao ông lại bảo ta trở về cung tu tập.

Người đời đang ở trong nỗi khổ lớn, chỉ vì một chút vui mà say đắm không thể rời được, huống chi ta nay ở nơi vô cùng vắng vẻ, an tịnh không có các nỗi khổ, sao có thể bỏ đi để trở lại với cảnh xấu ác?

Các Vua xưa vào rừng tu hành không ai nửa chừng trở về thọ hưởng dục lạc. Nếu Phụ Vương nhất định muốn ta trở về là trái với đạo pháp của các Vua xưa.

Vị Quốc Sư liền thưa với Thái Tử: Lời Thái Tử vừa nói quả thật rất đúng nhưng các vị Tiên Thánh có người nói tương lai chắc chắn có quả báo, có người lại bảo không có điều đó.

Các vị Tiên Thánh ấy còn không thể biết chắc trong đời sau có hay không có quả báo, sao Thái Tử lại muốn bỏ an lạc hiện tại mà tìm quả báo tương lai chưa chắc chắn?

Sống chết, quả báo còn chưa biết có không, sao lại muốn tìm quả giải thoát. Cúi xin Thái Tử hãy trở về cung.

Thái Tử trả lời: Hai vị Tiên kia nói về quả báo trong tương lai. Người bảo có, kẻ bảo không, đều bởi ôm lòng nghi ngờ nên chẳng thể khẳng định. Nay ta hoàn toàn không tu theo con đường của những vị Tiên đó. Ông không nên lấy lý lẽ của họ để vấn nạn ta.

Vì sao?

Vì ta không phải mong cầu quả báo mà rời Hoàng Cung đến đây tìm đạo, nhưng vì chính mắt ta trông thấy nỗi khổ sinh già bệnh chết mà bất cứ ai cũng phải trải qua nên ta đi tìm con đường giải thoát khỏi những nỗi khổ ấy.

Không lâu nữa các ông sẽ thấy đạo của ta, ta sẽ hoàn thành được chí nguyện. Nay ta không thể trở về. Các ông hãy về tâu lại với Phụ Vương ta như thế.

Nói xong Thái Tử đứng dậy từ giã Quốc Sư và quan Đại Thần đi về hướng Bắc, nơi có hai vị Tiên Nhân A La La và Ca Lan đang tu hành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần