Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Năm Mươi Tám - Phẩm Nhân Duyên Của Bà đề Lợi Ca - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

 PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM NĂM MƯƠI TÁM

PHẨM NHÂN DUYÊN CỦA BÀ ĐỀ LỢI CA  

PHẦN HAI  

Bấy giờ Vua Thích Bà Đề Lợi Ca cho việc này thật kỳ lạ chưa từng có, không thể nghĩ bàn, nên nghĩ: Ít có! Ít có! Ma Ni Lâu Đà lại có trí tuệ thù thắng vi diệu như vậy!

Vua Thích Bà Đề Lợi Ca nói với Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Này Ma Ni Lâu Đà, từ nay về sau, nếu có cần gì ở ta Đồng Tử khỏi phải đích thân đến, chỉ cho người đến. Ta không phụ nhau đâu.

Lúc đó mẹ Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà nghĩ: Thích Bà Đề Lợi Ca này thuở thơ ấu đã cùng con ta vọc đất chơi với nhau, đồng kết bạn thân thiện, nên ngày nay Đồng Tử chắc không xuất gia.

Nghĩ như vậy rồi, bà gọi con mình về và nói: Này Ma Ni Lâu Đà, nếu Vua Thích Bà Đề Lợi Ca xả tục xuất gia thì khi ấy con có xuất gia không?

Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà nghe mẹ hỏi như vậy, nên đi gặp Vua Thích Bà Đề Lợi Ca. Trong lúc này, nhà Vua rời cung điện đến dự hội tại Na Tra Ca nhà Tùy dịch là Dĩ Ca Thuyết Cát Sự và đang ngồi xem.

Bấy giờ Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà suy nghĩ: Nếu ta đi vào hội thì nhất định sẽ cản trở sự du hý thưởng ngoạn của nhà Vua. Nghĩ như vậy rồi, nên ngồi ngoài ngõ, đợi hội vui Na Tra Ca tan, sau đó mới vào. Khi ở trong hội, lúc hội vui nhộn nhất, nhà Vua thấy một nữ ca sĩ tay cầm đàn không hầu.

Khi ấy đàn bỗng đứt một dây, nàng lẹ tay nối lại mà trong hội vui Na Tra Ca không có một ai hay biết, chỉ một mình nhà Vua thấy mà thôi.

Nhưng Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà ở ngoài ngõ cũng biết việc này. Khi Đồng Tử thấy hội vui Na Tra Ca sắp hết, mới đến gặp nhà Vua Thích Bà Đề Lợi Ca. Đến nơi, chàng lấy tay choàng cổ nhà Vua rồi sau đó mới ngồi về một bên.

Nhà Vua Thích Bà Đề Lợi Ca nói với Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Này Ma Ni Lâu Đà, trước đây ta có nói với Đồng Tử, nếu có cần việc gì khỏi phải thân hành đến, chỉ cho người đến, ta không phụ đâu.

Nay vì việc gì Đồng Tử đích thân đến đây?

Ma Ni Lâu Đà đáp: Tâu Đại Vương, sự việc như thế này, không thể cho người khác đến được.

Nhà Vua hỏi Đồng Tử: Này Ma Ni Lâu Đà, sự việc theo người nói là việc gì?

Là do Đồng Tử hay là do ta?

Ma Ni Lâu Đà đáp: Tâu Đại Vương, việc này do tôi, cũng có liên quan đến Đại Vương.

Nhà Vua lại hỏi: Nếu có liên quan đến ta thì xin Đồng Tử nói rõ.

Ma Ni Lâu Đà đáp: Tâu Đại Vương, Đại Vương phải biết, ý tôi muốn xả tục xuất gia. Như vậy, việc ấy có liên quan đến Đại Vương.

Nhà Vua lại đáp: Này Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà, Đồng Tử muốn xả tục xuất gia, tất có quan hệ đến ta, ta sẽ đồng ý cho Đồng Tử xuất gia. Đồng Tử đối với ta chớ nên lo âu. Nếu muốn xuất gia thì tùy ý Đồng Tử.

Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà tâu Vua Thích Bà Đề Lợi Ca: Đại Vương phải cùng tôi xuất gia.

Vì sao?

Vì cha mẹ tôi nói với tôi: Này Ma Ni Lâu Đà, nếu Vua Thích Bà Đề Lợi Ca xả tục xuất gia thì con cũng theo nhà Vua mà xuất gia.

Lúc đó Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà thấy Vua Thích Bà Đề Lợi Ca ở trước đại chúng nói lời chân thật: Này Ma Ni Lâu Đà, Đồng Tử muốn xả tục xuất gia, nếu có quan hệ đến ta thì ta không làm ngược lại, sẽ tùy thuận với Đồng Tử mà xuất gia.

Lúc đó mọi người trong hoàng gia họ Thích đều nói lời thành thật: Như vậy, xin thỉnh Đại Vương cùng đi xuất gia với Ma Ni Lâu Đà.

Bấy giờ Đại Vương Thích Bà Đề Lợi Ca nói với Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Nếu quyết định như vậy, Đồng Tử phải đợi ở nhà bảy năm, để ta sắp đặt quốc sự xong xuôi rồi sau đó ta sẽ cùng Đồng Tử xả tục xuất gia.

Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà lại tâu Vua Thích Bà Đề Lợi Ca: Tâu Đại Vương, chớ nói như vậy. Tôi không thể đợi đến bảy năm.

Tại sao?

Tâu Đại Vương, bảy năm quá lâu. Biết đâu trong khoảng thời gian đó việc xuất gia của chúng ta bị trở ngại.

Nhà Vua lại nói với Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Đồng Tử có thể đợi ta trong vòng sáu năm, để ta thu xếp quốc sự xong rồi, sau đó ta sẽ cùng với Đồng Tử xả tục xuất gia.

Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà lại tâu Vua Thích Bà Đề Lợi Ca: Đại Vương, không nên nói như vậy. Tôi cũng không thể đợi sáu năm.

Vì sao vậy?

Vì sáu năm quá lâu, biết đâu trong thời gian đó, có việc gây chướng ngại cho việc xuất gia của chúng ta.

Nhà Vua Bà Đề Lợi Ca lại nói với Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Này Đồng Tử, nếu nhất định như vậy, xin Đồng Tử đợi ta trong vòng năm năm, để ta thu xếp quốc sự. Cứ như vậy, giảm xuống bốn năm, ba năm, hai năm mà Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà đều không chịu.

Bấy giờ nhà Vua lại nói: Nếu không chịu như vậy, thì xin đợi ta trong vòng một năm để ta thu xếp quốc sự, sau đó ta sẽ cùng Đồng Tử xuất gia.

Ma Ni Lâu Đà vẫn tâu Vua Thích Bà Đề Lợi Ca: Tôi cũng không thể đợi đến một năm.

Tại sao?

Vì một năm vẫn còn lâu. Biết đâu trong thời gian ấy có việc của Nhà Vua làm trở ngại.

Bấy giờ Vua Thích Bà Đề Lợi Ca nói với Ma Ni Lâu Đà: Này Đồng Tử, nếu nhất định không chịu, xin Đồng Tử đợi cho tôi trong vòng sáu tháng để tôi thu xếp quốc sự. Cứ như vậy giảm xuống ba tháng, hai tháng, một tháng mà Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà đều không chịu.

Khi ấy Vua Thích Bà Đề Lợi Ca nói với Ma Ni Lâu Đà: Này Đồng Tử, nếu Đồng Tử nhất định không chịu, xin Đồng Tử đợi cho tôi bảy ngày bảy đêm để tôi thu xếp quốc sự, rồi sau đó sẽ cùng Đồng Tử xả tục xuất gia. Ma Ni Lâu Đà liền tâu Vua Thích Bà Đề Lợi Ca.

Lành thay! Tâu Đại Vương! Lành thay Bà Đề Lợi Ca! Vâng theo ý Đại Vương, tôi sẽ đợi bảy ngày bảy đêm. Thuở ấy, Đức Thế Tôn ngự tại làng A Nô Di Ca Da. Trong bảy ngày đêm nơi Hoàng Cung nhà Vua dùng các thứ trang hoàng như chuỗi anh lạc trang sức trên thân, cho đến ở hoa viên thọ hưởng thú vui ngũ dục.

Như người sắp đi đến nhà khác dự đại hội, họ gội đầu, chải tóc, mặc y phục, dùng chuỗi anh lạc trang điểm trên thân, sau đó mới đi.

Khi Vua Thích Bà Đề Lợi Ca sắp đến hoa viên du ngoạn vui chơi cũng như vậy. Có một Đồng Tử tên là Bạt Phù Đà nhà Tùy dịch là Đa Mi.

Lại có một Đồng Tử khác tên là Cung Tỳ La.

Lại có một Đồng Tử khác tên là Nan Đề Ca.

Lại có một Đồng Tử họ Thích khác tên là A Nan.

Lại có một Đồng Tử họ Thích khác tên là Đề Bà Đạt Đa.

Thân thể các Đồng Tử này cũng trang điểm như vị Vua nói trên, các Đồng Tử này cũng mặc y phục, trang sức bằng chuỗi anh lạc, lại đem theo một thợ cắt tóc giỏi, đồng đi đến làng A Nô Di Ca Da. Bấy giờ Vua Thích Bà Đề Lợi Ca có các bảo vật giá trị đến ba trăm lượng vàng.

Giá trị y phục một trăm lượng vàng, giá trị chuỗi anh lạc một trăm lượng vàng và giá trị yên cương, đồ trang bị cho ngựa một trăm lượng vàng. Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà cũng như vậy.

Các Đồng Tử họ Thích: Bạt Phù Bà, Cung Tỳ La, Nan Đà Ca, A Nan Đà, Đề Bà Đạt Đa, mỗi vị cũng có nhiều thứ bảo vật giá trị đến ba trăm lượng vàng. Giá trị trang bị cho ngựa. Tổng giá trị bảo vật của các Đồng Tử lên đến hai ngàn một trăm lượng vàng.

Khi các Đồng Tử ra khỏi thành Ca Tỳ La Bà Tô Đô rồi, mọi người xuống ngựa, đều cởi hết chuỗi anh lạc trên thân cho thợ hớt tóc và nói: Các chuỗi anh lạc này chúng ta đều cho ông để sinh sống, ông hãy nhận lấy làm vốn sinh sống, không nên mong cầu gì khác. Các Đồng Tử trao chuỗi anh lạc rồi đồng đi đến làng A Nô Di Ca.

Bấy giờ người thợ hớt tóc nghĩ thế này: Những người họ Thích oai đức lẫy lừng có khi sẽ cho rằng ta đưa các Đồng Tử đi trốn khắp đó đây. Vì lý do đó, e rằng họ đến bức hiếp làm tổn hại ta.

Các Đồng Tử đã mửa bỏ các vật này, tại sao ta lại ăn vào?

Ngày nay, ta không nên nhận lấy các bảo vật này, các Đồng Tử đã giàu sang phú quý, đầy oai đức lẫy lừng như vậy, vẫn còn vứt bỏ vô lượng tài sản, bảo vật cùng vương vị để xả tục xuất gia.

Huống gì như ta ngày nay vì cớ gì mà không theo họ xuất gia?

Suy nghĩ như vậy rồi, người thợ hớt tóc liền đem các bảo vật, chuỗi anh lạc móc trên cành cây và thầm nghĩ: Nếu ai thấy được vật này, tự do lấy dùng, hoàn toàn không phải ăn cắp. Tự nghĩ như vậy rồi, người thợ hớt tóc đi đến chỗ các Đồng Tử họ Thích.

Các Đồng Tử họ Thích từ xa trông thấy người thợ hớt tóc hướng đến, hỏi vị ấy: Vì sao ông không trở về nhà?

Người thợ hớt tóc trả lời các Đồng Tử họ Thích:

Thưa các Thánh Tử, tôi nghĩ thế này: Những người họ Thích rất hùng cường, có đầy oai đức thế lực như vậy, có thể cho rằng ta đưa các Đồng Tử đi trốn đó đây. Vì lý do đó, e sợ họ đến làm tổn hại thân mạng ta. Các Đồng Tử đã mửa bỏ bảo vật, ta vì sao lại ăn vào, ta hông nhận lấy các vật báu.

Vì sao?

Vì các Đồng Tử họ Thích cường thạnh, có nhiều oai thế mà vẫn xuất gia, huống chi ta ngày nay vì sao lại không xuất gia?

Thưa các Thánh Tử! Vì lý do đó tôi không trở về nhà.

Bấy giờ các Đồng Tử họ Thích nghe nói như vậy nên bảo: Ông đã suy nghĩ, quyết định như vậy thì không nên trở về nhà.

Vì lý do gì?

Đúng như lời ông nói. Các người họ Thích của ta oai nghiêm rực rỡ, tất sẽ cho rằng ông dẫn các Đồng Tử đi trốn đó đây. Đã có lời nói như vậy, nhất định họ sẽ đến làm hại thân mạng ông.

Bấy giờ các Đồng Tử họ Thích cùng với người thợ hớt tóc đồng đi đến chỗ Phật, đến nơi lễ dưới chân Phật, rồi ngồi về một bên và bạch: Bạch Đức Thế Tôn, xin cho chúng con được xả tục xuất gia thọ giới cụ túc.

Họ lại bạch: Bạch Đức Thế Tôn, nếu Ngài cho chúng con xuất gia thì nên độ cho người thợ hớt tóc xuất gia trước.

Vì sao?

Vì người thợ hớt tóc này đã trải qua thời gian lâu dài cần khổ phụng sự chúng con, chưa từng sơ xuất, nên cho người thợ hớt tóc xuất gia và thọ giới cụ túc trước.

Ông ta xuất gia rồi, chúng con mới xuất gia thọ giới cụ túc sau, để có dịp chúng con đứng dậy nghinh tiếp, chắp tay cung kính đảnh lễ ông ta, thể hiện sự tôn trọng.

Vì sao?

Vì các Đồng Tử họ Thích chúng con công cao kiêu mạn, nay do người này chúng con hồi tâm, từ bỏ tâm kiêu mạn thuở trước. Bấy giờ Đức Thế Tôn độ cho người thợ hớt tóc xuất gia thọ giới cụ túc trước. Sau đó kế tiếp độ Vua Thích Bà Đề Lợi Ca xuất gia thọ giới cụ túc.

Ngoài ra, các Đồng Tử khác đều theo thứ tự được xuất gia thọ giới cụ túc. Lúc đó A Nan và Đề Bà Đạt Đa vẫn chưa được xuất gia vì hai vị này rời Thế Tôn đi đến dưới chân núi Tuyết.

Bấy giờ dưới chân Tuyết Sơn có một vị Trưởng Lão họ Bạt Da Sắc Tra, tên là Tăng Già. Vị này tu hành đã chứng ba quả, thành tựu Tứ Thiền, thường sống dưới chân Tuyết Sơn.

Bạt Da Sắc Tra Tăng Già thấy hai Đồng Tử A Nan và Đề Bà Đạt Đa đi đến, Trưởng Lão tiếp đón hỏi han: Các Đồng Tử họ Thích có nhân duyên gì đến đây?

Hai Đồng Tử đáp: Hôm nay, hai chúng con muốn xuất gia, vì vậy mới đến Trưởng Lão.

Lành thay! Thưa Thánh Giả, cúi xin Ngài độ cho chúng con xuất gia. Bấy giờ Bạt Da Sắc Tra Tăng Già chưa quán sát đức hạnh và cũng chưa từng biết căn tánh của Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa nên Trưởng Lão liền cho hai người xuất gia và thọ giới cụ túc.

Trưởng Lão A Nan xuất gia chưa được bao lâu, ở chỗ vắng vẻ Tọa Thiền tư duy, suy nghĩ thế này: Hôm nay, có lẽ Thân Giáo Sư cho ta đi gặp Đức Phật. Ta cũng nên đến yết kiến Đức Phật.

Nghĩ như vậy rồi, Trời vừa sáng, A Nan từ phòng đi ra, hướng về Bạt Da Sắc Tra Tăng Già, đảnh lễ dưới chân, đứng về một bên rồi bạch Trưởng Lão Bạt Da Sắc Tra Tăng Già: Bạch Trưởng Lão, ý con nay muốn đến gặp Đức Phật, không biết Trưởng Lão có cho phép hay không?

Bạt Da Sắc Tra Tăng Già bảo A Nan: Nếu thấy đúng lúc thì thầy cứ đi.

Khi đến nơi, thầy sẽ thay ta lễ dưới chân Đức Phật, thay ta hỏi lời vấn an Đức Thế Tôn rằng Ngài có ít bệnh, ít não, thân có được an ổn không?

Đi đứng có được dễ dàng không?

Du hành giáo hóa có khó nhọc không?

Thân thể khí lực có được dồi dào không?

A Nan nghe Thân Giáo Sư nói như vậy, lại bạch: Y như lời Trưởng Lão, con không dám trái lời. A Nan đảnh lễ dưới chân Bạt Da Sắc Tra Tăng Già, nhiễu quanh ba vòng rồi từ tạ ra đi.

Bấy giờ Trưởng Lão Đề Bà Đạt Đa thấy A Nan đi gặp Đức Phật nên hỏi: Trưởng Lão A Nan, thầy đi đâu đó?

A Nan đáp: Tôi định đến yết kiến Đức Phật.

Đề Bà Đạt Đa nói: Này A Nan, nếu thầy nhất định đi, xin đợi tôi chốc lát, tôi cũng sẽ đến xin phép Thân Giáo Sư, rồi tôi cùng thầy đi đến Đức Phật.

Đề Bà Đạt Đa liền đi đến chỗ Tôn Giả Bạt Da Sắc Tra Tăng Già đảnh lễ dưới chân, đứng về một bên, bạch: Thưa thầy, con muốn yết kiến Đức Phật. Cúi xin thầy thương mến cho phép.

Bấy giờ Trưởng Lão Bạt Da Sắc Tra bảo Đề Bà Đạt Đa:

Nếu thầy thấy đến lúc, khi đi đến chỗ Phật sẽ thay ta đảnh lễ dưới chân Phật và vấn an Thế Tôn: Ít bệnh, ít não, thân thể có an ổn không?

Đứng ngồi có dễ dàng không?

Đi lại hóa đạo có khó khăn không?

Thân thể khí lực có dồi dào không?

Đề Bà Đạt Đa thưa Bạt Da Sắc Tra Tăng Già: Như lời Tôn Sư dạy, con không dám trái phép. Đề Bà liền đảnh lễ Tôn Sư, nhiễu quanh ba vòng, từ tạ ra đi. Bấy giờ hai vị Trưởng Lão A Nan Đà và Đề Bà Đạt Đa rời khỏi chân Tuyết Sơn, đồng đi đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, hai người đảnh lễ dưới chân Đức Phật và đứng lui về một bên.

Trưởng Lão Đề Bà Đạt Đa bạch Thế Tôn: Khi trước con cầu xin Như Lai xuất gia mà Như Lai không cho.

Nay Như Lai không thấy con được xuất gia rồi hay sao?

Đức Phật bảo Đề Bà Đạt Đa: Này Đề Bà Đạt Đa, người vì mục đích gì mà xuất gia vậy?

Xuất Gia rồi, xin người không nên phản lại.

Các thầy Tỳ Kheo bạch Phật: Kỳ lạ thay! Bạch Thế Tôn, khi trước Ngài thường răn dạy Đề Bà Đạt Đa làm việc lợi ích. Ngược lại nay Đề Bà Đạt Đa lại đem oán thù đến với Phật.

Đức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: Này các thầy, chẳng chỉ đời này ta dạy Đề Bà Đạt Đa làm điều lợi ích, mà người lại oán thù ta, ở trong quá khứ cũng như vậy. ta dạy điều lợi ích, ngược lại, ông ấy oán thù ta.

Khi ấy các Tỳ Kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, việc ấy thế nào, xin Ngài dạy rõ cho.

Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Ta nhớ trong thời quá khứ dưới chân Tuyết Sơn có con chim một thân hai đầu, thường ở tại nơi đây. Một đầu gọi là chim Ca Lâu Trà, một đầu gọi là chim Ưu Ba Ca Lâu Trà. Chim hai đầu này, một đầu ngủ, một đầu thức. Một hôm nọ, đầu chim Ưu Ba Ca Lâu Trà đang ngủ thì gần bên đầu chim thức có một cây ăn quả tên Ma Đầu Ca. Cây này gió thổi làm hoa rơi nơi đầu chim thức.

Lúc ấy với ý nghĩ: Nếu một mình ta ăn hoa này, khi nuốt vào bụng thì cả hai đầu đều được sắc đẹp và sức lực, được hết đói khát, nên dầu chim thức không đánh thức đầu chim ngủ, cũng không báo cho biết, im lặng ăn hoa.

Sau đó, đầu chim ngủ thức dậy, thấy trong bụng no nê, ho hắt hơi ra ngoài, liền nói với đầu chim thức: Anh ăn uống thức ăn tuyệt vời này ở đâu, khiến cho thân thể tôi no nê thoải mái, làm cho âm thanh của tôi trong trẻo?

Đầu chim Ca Lâu Trà đáp: Khi anh ngủ say, nơi đó cách đầu tôi chẳng xa, có hoa của cây ăn quả Ma Đầu Ca, lúc ấy một hoa rơi trên đầu tôi.

Bấy giờ với ý nghĩ: Chỉ một mình ta ăn hoa này, đến khi vào bụng thì cả hai đầu đều khỏi đói khát, đều có sắc đẹp và sức lực, nên tôi không đánh thức anh dậy, cũng không nói cho anh biết, mà ăn hoa ấy.

Đầu chim ngủ nghe nói như vậy, liền oán giận, hiềm trách, nghĩ thế này: Người được thức ăn không nói ta hay, không gọi ta dậy, tự ăn một mình. Như vậy, từ nay về sau nếu được thức ăn ta cũng khổng gọi, không cho biết. Chim hai đầu ấy vào một hôm nọ bay đi đó đây, bỗng nhiên gặp một bông hoa độc.

Với ý nghĩ: Ta ăn hoa này để cả hai đầu đều chết.

Nên đầu kia nói với đầu Ca Lâu Trà: Giờ này anh ngủ đi, tôi sẽ thức. Ca Lâu Trà nghe đầu Ưu Ba Ca Lâu Trà nói như vậy liền ngủ say. Đầu chim Ưu Ba Ca Lâu Trà vội ăn hoa độc.

Đầu chim Ca Lâu Trà ngủ xong thức dậy, ho hắt hơi ra ngoài, biết đây là hơi độc, liền hỏi đầu chim kia: Khi thức, anh ăn thức ăn độc nào khiến cho thân thể ta không an, mạng sống sắp chết, làm cho âm thanh ta khàn khàn, muốn nói ra nhưng cổ họng nghẹt cứng không thông.

Lúc ấy đầu chim Ưu Ba Ca Lâu Trà nói với đầu chim Ca Lâu Trà: Khi anh ngủ say, tôi ăn hoa độc, muốn cho hai đầu đều chết.

Ca Lâu Trà nói với Ưu Ba Ca Lâu Trà: Việc làm của anh thật bộp chộp vội vàng.

Tại sao anh làm việc như vậy?

Liền nói kệ:

Ngày xưa anh đang yên giấc ngủ

Tôi ăn hoa lành mùi ngon ngọt

Hoa kia gió thổi rớt bên tôi

Anh lại phát sinh tâm sân hận.

Nguyện chẳng muốn thấy kẻ ngu này

Cũng nguyện chẳng sống chung với họ

Sống chung người ngu không lợi ích

Người ngu tự hại, hại người khác.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Nếu các thầy có tâm nghi ngờ chim Ca Lâu Trà ăn hoa thơm thuở ấy là ai thì chớ nên nghĩ gì khác, tức là thân ta vậy.

Chim Ưu Ba Ca Lâu Trà ăn hoa độc thuở ấy là ai?

Tức là Đề Bà Đạt Đa này vậy. Thuở ấy ta làm việc lợi ích, Đề Bà Đạt Đa ngược lại sinh sân hận. Ngày nay cũng vậy, ta dạy điều lợi ích, ngược lại oán thù ta.

Khi Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca đã xuất gia rồi, ở trong ba tháng hạ thành tựu ba pháp thần thông, Ma Ni Lâu Đà chứng được thiên nhãn, Trưởng Lão Bạt Phù Bà, Trưởng Lão Nhân Kỳ, Trưởng Lão Nan Đề Ca những vị này đắc quả A La Hán. A Nan lại chứng quả Tu Đà Hoàn, Đề Bà Đạt Đa chứng được thần thông phàm phu thế gian.

Khi Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca đắc quả A La Hán, hoặc ở dưới gốc cây hay trong phòng vắng, hoặc ở nơi đất trống, hoặc ở trong vườn Kỳ Đà, ngày đêm ba thời thường xướng lên ba lần thế này: hật là an lạc!

Lúc ấy các vị Tỳ Kheo đến bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca Kiều Cù Di không thích ở trong pháp Thế Tôn, không vui không mừng, luôn luôn nhớ đến thú vui phú quý khi còn vương vị.

Vì thường nhớ nghĩ đến việc ấy nên hoặc ở dưới gốc cây, hoặc ồ trong phòng vắng, hoặc ở nơi đất trông, thường ba thời xướng lên ba lần: Thật là an lạc!

Khi ấy Đức Phật gọi một Tỳ Kheo đến và bảo: Thầy đến đây. Hãy vì ta, thầy đến gặp Tỳ Kheo Bà Đề Lợi Ca và nói rằng Thế Tôn cần gặp thầy.

Tỳ Kheo ấy bạch Phật: Y như lời Thế Tôn dạy, con xin vâng lời.

Đi đến chỗ Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca, vị ấy nói: Thưa Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca, Đức Thế Tôn gọi thầy đến. Bà Đề Lợi Ca nghe nói như vậy, liền đi đến chỗ Đức Phật, đến nơi đảnh lễ rồi đứng lui về một bên.

Đức Phật bảo Bà Đề Lợi Ca: Này Bà Đề Lợi Ca, thầy không thích ở trong pháp của ta tu phạm hạnh phải không?

Thầy luôn luôn tưởng đến ngôi Vua phải không?

Vì tưởng nhớ như vậy nên hoặc ở dưới gốc cây, hoặc nơi phòng vắng, hoặc nơi đất trống, trong ba thời xướng lên thế này: Thật là an lạc! Thật là an lạc!

Phải không?

Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca bạch Phật: Đúng vậy, bạch Thế Tôn. Đúng vậy, bạch Như Lai.

Đức Phật lại bảo: Thầy thấy lợi ích gì, hoặc ở dưới gốc cây ba thời xướng lên: Thật là an lạc! Thật là an lạc!?

Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, khi xưa con ở tại cung Vua, nhận lễ quán đảnh, lên làm Vua trị vì, được bảy lớp tường thành bao bọc cung điện bảo vệ con, lại có bảy lớp tượng quân hộ vệ, lại có bảy lớp chiến mã, như vậy.

Lại có quân xa, bộ binh, mỗi loại đều có bảy lớp, đều mặc áo giáp, tay cầm binh khí cung, tên, giáo, mác, mâu, thuẫn, chày Kim Cang lớn và gậy sắt lớn, khóa sắt, vòng sắt, chĩa ba, búa rìu bao nhiêu binh khí như vậy hộ vệ chung quanh con. Ngoài tường lại có bảy lớp hào nước.

Giữ gìn như vậy, che chở như vậy, nhưng ban đêm nếu nghe tiếng động, con vẫn hồi hộp không yên, toàn thân dựng chân lông, thường sinh hổ thẹn, các căn biến động.

Bạch Đức Thế Tôn, ngày nay hoặc con ở dưới gốc cây, hoặc trong phòng vắng, hoặc nơi đất trống, ban đêm nghe bao tiếng thú dữ, con không còn sợ sệt, thân không dựng chân lông, không có hổ thẹn, các căn không biến động.

Do vậy, con thường tư duy, nghĩ thế này: Ta đã được điều lợi ích lớn! Ngày nay Thế Tôn là Bậc Đạo Sư của ta, thuyết các pháp mà Ngài đã được giác ngộ, ở trong pháp ấy ta được xuất gia, tu hành phạm hạnh, có nhiều cấm giới hộ trì ta để trở thành bậc diệu hạnh. Ta đang được đời sống tốt đẹp, khi qua đời cũng tốt đẹp.

Bạch Đức Thế Tôn, con đem sự sung sướng giàu sang thuở xưa nơi vương vị, so với sự an lạc xuất gia ngày hôm nay như cái vui ngồi chỗ vắng, cái vui giác quán, cái vui tịch tịnh, những cái vui của bậc Sa Môn do con nghĩ đến những cái vui này nên khi đang ở dưới gốc cây.

Hoặc trong phòng vắng, hoặc nơi đất trống, tri túc thiểu dục, đi khất thực, mà thân không sợ hãi dựng chân lông, giống như nai rừng tâm được tự tại, đi đứng nằm ngồi không bị chướng ngại.

Cho nên ba thời thường reo lên ba lần: Thật là an lạc!

Lúc bấy giờ, Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca ở trước Đức Phật vì đại chúng mà nói kệ:

Thâm cung ngày xưa tôi đang ngự

Bảy lớp tường thành cao chót vót

Lầu canh đuổi giặc thật vững bền

Thành lũy bao quanh đến bảy lớp

Quân sĩ luôn luôn cầm khí giới

Suốt cả ngày đêm hộ vệ tôi

Nhiều cách như vậy để phòng thủ

Nhưng thân tâm vẫn sợ chẳng an.

Ngày nay tôi sống với Thế Tôn

Không có một người theo hộ vệ

Cho đến sống nơi thật hoang vắng

Hoặc dưới gốc cây trong rừng núi

Tôi: Ba Đề Ca, đệ tử Phật

Mọi người cùng nhau đồng che chở

Đi đứng nằm ngồi thường an lạc

Do vậy tâm không còn lo nghĩ.

Tôi xưa trong cung cỡi voi chúa

Thân mặc y phục lụa tuyệt vời

Ăn uống canh cơm đồ ngon ngọt

Canh cháo hòa với vị thịt ngon,

Tôi nay nằm ngồi tùy ý trải

Phấn tảo che thân nơi hoang vắng

Cắt ái từ bỏ gốc khổ đau

Muốn làm việc gì đều tùy ý.

Khi ấy vì việc này Đức Thế Tôn nói kệ:

Biết thân mạng, không lo khi sống

Cũng không buồn khi mạng lâm chung

Người nào dũng mãnh thấy Chân Đế

Tuy trong biển khổ nào có sợ.

Tỳ Kheo nào đã đoạn hữu ái

Thì đoạn trừ hết tất cả trần

Phiền não sinh tử đều diệt sạch

Như vậy không luân hồi đời sau.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Này các thầy, trong hàng đệ tử Thanh Văn của ta, người giàu sang quyền quý nhất xuất gia, đó là Tỳ Kheo Bà Đề Lợi Ca này.

Khi ấy các Tỳ Kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca này ngày trước tạo thiện nghiệp gì, nay sinh trong nhà đại hào quý họ Thích, được nhiều của cải, sản nghiệp không thiếu?

Tạo nghiệp gì được thừa kế lên ngôi Vua họ Thích?

Tạo nghiệp gì được xuất gia thọ giới cụ túc, chứng quả A La Hán?

Được Thế Tôn ghi nhận: Này các Tỳ Kheo, trong hàng đệ tử Thanh Văn của ta, xả bỏ sự hào quý danh vọng đi xuất gia, thì Bà Đề Lợi Ca là người đệ nhất?

Bấy giờ Đức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: Này các thầy, ta nhớ thuở quá khứ, có một người nghèo cùng đi ăn xin để sống. Người này từ một thành nọ đi đến thành Ba La Nại.

Khi đến nơi, những ăn mày ở nơi đây đều quở trách tên ăn mày đó: Ngươi từ đâu đến đây?

Ta ngăn cấm ngươi không được đi ăn xin.

Bấy giờ người ăn mày này thấy có sự trở ngại nên suy nghĩ: Ta với bọn họ không tội lỗi gì, tại sao họ ngăn cấm không cho ta đi xin?

Thuở ấy, tại thành Ba La Nại có một vị trưởng giả mất một cái bát bằng đồng, nên ông ta đi tìm kiếm. Tìm tại nơi đây không có, ông mới đi đến các thôn khác tìm bát đồng.

Khi ấy người ăn mày kia lượm được bát đồng nơi đống phân, treo bát trên đầu cây gậy, đi vào thành Ba La Nại, đi từ đường phố này đến đường phố nọ, đi từ đường hẻm nọ đến đường hẻm kia, từ ngã tư đường hẻm này đến ngã tư đường hẻm kia, từ góc đường này đến góc đường nọ, miệng rao lên: Bát đồng này là vật của ai?

Ai là người chủ, xin nhận lãnh! Người ăn mày đi khắp đó đây để tìm người chủ, nhưng rốt cuộc không tìm ra chủ nó nên đến giao cho Vua Phạm Đức.

Sau đó, trưởng giả mới nghe: Có người lượm được bát đồng từ nơi đống phân, treo bát trên đầu gậy đi vào thành Ba La Nại, từ đường phố này đến đường phố kia, từ đường hẻm kia đến đường hẻm nọ và miệng rao lên: Bát đồng này của ai?

Đi khắp mọi nơi không biết chủ nó ở đâu. Vì không tìm được người chủ nên họ đến giao cho Vua Phạm Đức.

Trưởng giả nghe như vậy, đến gặp Vua Phạm Đức và tâu: Đại Vương biết cho! Bát đồng mà trước đây tên ăn mày dâng cho Đại Vương là chiếc bát của tôi.

Lúc ấy Vua Phạm Đức cho sứ giả đi gọi tên ăn mày đến, nhà Vua hỏi: Chiếc bát trước kia người mang đến đây, nay trưởng giả này nói là của trưởng giả.

Việc ấy như thế nào?

Người ăn mày tâu Vua Phạm Đức: Như thế này, thưa Đại Vương, tôi không biết bát đồng này là vật sở hữu của ai.

Nó ở nơi đống phân, tôi lượm được rồi treo trên đầu cây gậy, đi vào thành Ba La Nại này, đi khắp đó đây hỏi không biết chủ của nó ở đâu. Do không biết chủ, nên tôi mới đem dâng cho Đại Vương. Nay tùy ý Đại Vương sử dụng.

Bấy giờ Vua Phạm Đức nghe nói như vậy, rất vui mừng, trao bát đồng lại cho trưởng giả và nói với người ăn mày: Này nhân giả, đối với ta, người muốn cầu mong những gì ta sẽ ban cho người.

Người ăn mày tâu Vua Phạm Đức: Tâu Đại Vương, nếu ngày nay Đại Vương thật sự hoan hỷ đáp ứng nguyện vọng của tôi thì xin Đại Vương cho tôi làm chúa trong đám ăn mày nơi thành Ba La Nại này.

Vua Phạm Đức lại nói: Ngày nay, ngươi xin làm chúa đám ăn mày đó làm gì. Nên xin các điều ước muốn khác hoặc là vàng bạc, hoặc xin phong ấp một thôn trù phú nhất nước ta ta sẽ ban ngay cho người.

Người ăn mày lại tâu: Tâu Đại Vương, nếu Đại Vương hoan hỷ xin ban cho tôi được ước nguyện đó, tôi chỉ muốn được như thế thôi.

Nhà Vua liền phán: Theo ý ông muốn, ta chấp thuận. Bấy giờ tại thành Ba La Nại tổng cộng có năm trăm người ăn mày.

Người ăn mày được ước nguyện ấy tập họp tất cả các ăn mày và tuyên bố: Ta được Đại Vương cho làm chúa các ngươi, các ngươi phải nghe lệnh ta phân xử.

Năm trăm ăn mày hỏi người ăn mày chúa: Nay chúa phân chia chúng tôi làm những gì?

Người ăn mày chúa phán: Các ngươi phải cùng nhau khiêng ta trên vai, hoặc đặt ta trên lưng mà cõng đi, còn bao nhiêu hầu hạ chung quanh hai bên mà đi.

Bọn ăn mày năm trăm người nghe nói như vậy, liền theo sự xử phân đó: Hoặc người kiệu trên vai, hoặc người cõng trên lưng, du hành khắp đó đây. Đến xin những nơi có đồ ngồi, đồ nằm, thức ăn uống rồi đem về một chỗ, vị ăn mày chúa phân chia rồi cùng nhau đồng sử dụng.

Sự sinh hoạt như vậy, sống qua thời gian khá lâu. Hôm nọ, có một người ngồi chỗ vắng, ăn Ma Hồ Trà Ca nhà Tùy dịch là Hoan hỷ hoàn.

Lúc ấy tên ăn mày chúa cướp lấy thức ăn Ma Hồ Trà Ca của người này rồi bỏ chạy, năm trăm ăn mày đồ chúng đồng đuổi theo ăn mày chúa.

Chạy được quảng đường xa, mọi người đều mỏi mệt. Do vì mỏi mệt nên họ đều trở về, còn tên ăn mày chúa thân thể sức lực tráng kiện nên chạy mà không mệt.

Chạy đến chỗ xa, xoay đầu nhìn lại không thấy năm trăm ăn mày. Thấy vậy người này đi vào một khu rừng, dùng nước rửa tay, ngồi bên mé bờ, ý sắp ăn Ma Hồ Trà Ca.

Nhưng khi sắp ăn, anh ta hối hận: Ta chẳng tốt, ta vì cớ gì đoạt thức ăn của người khác, đoạt được rồi lại giấu đám tùy tùng của ta. Đồ ăn đã nhiều, ta ăn không hết. Nếu trong thế gian có các Thánh Nhân, xin rõ được lòng tôi mà đến đây, tôi sẽ phân cho thức ăn này.

Phát tâm như vậy rồi, có một vị Bích Chi Phật tên là Thiện Hiền, từ hư không bay đến, hạ xuống đứng trước mặt ăn mày chúa, cách người này chẳng bao xa.

Ăn mày chúa từ xa trông thấy vị Bích Chi Phật oai nghi chậm rãi, bước đi chững chạc, cử chỉ đúng phép, không gấp không hoãn. Thây vậy rồi, anh ta đối với vị Bích Chi Phật sinh tâm tịnh tín.

Đã được lòng tin thanh tịnh rồi, người này suy nghĩ: Ở trong quá khứ và cho đến hiện tại, ta chịu cảnh nghèo hèn đều do không gặp được ruộng phước như thế. Ta chưa từng biết cung kính cúng dường người như vậy.

Giả sử trong quá khứ ta đã gặp được ruộng phước như vậy thì ngày nay lẽ ra không gặp cảnh khốn khổ này, lẽ ra không sống dưới sự áp bức.

Ta nay đem thức ăn Ma Hồ Trà Ca dâng cho vị Tiên Nhân này, không biết Tiên Nhân có nhận lấy hay không?

Nếu được người nhận lấy thì nguyện ở đời vị lai ta thoát khỏi thân khốn ách bần tiện này. Nghĩ như vậy rồi, anh ta đem Ma Hồ Trà Ca dâng cho Tiên Nhân.

Bích Chi Phật chỉ có một pháp duy nhất là hiện thần thông làm phương tiện giáo hóa chúng sinh, ngoài ra không có pháp nào khác. Vị Bích Chi Phật nhận thức ăn Ma Hồ Trà Ca rồi, vì thương mến người này, từ đây bay vọt lên hư không mà đi.

Người ăn mày chúa thấy vị Bích Chi Phật bay đi trong hư không như vậy, vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế.

Do hoan hỷ nên anh ta chắp tay trên đầu, từ xa lễ dưới chân Tôn Giả Bích Chi Phật, rồi phát nguyện: Nguyện thân ta ở đời vị lai gặp được Bậc Thế Tôn như vậy, hoặc hơn thế nữa, với bao nhiêu giáo pháp của Ngài nói ra, tôi nguyện khi nghe qua rồi liền được tỏ ngộ.

Lại nguyện rằng ta ở đời vị lai sinh trong nhà hào tộc, có đại oai đức, làm Vua trị hóa dân chúng, chớ sinh trở lại trong đám ăn mày khổ sở.

Lại nguyện rằng đời đời kiếp kiếp không sinh vào các đường ác.

Đức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: Này các thầy, nếu có ai nghi ngờ tên ăn mày chúa ở thành Ba La Nại cúng dường Ma Hồ Trà Ca cho vị Bích Chi Phật thuở nọ là người nào thì chớ nghĩ gì khác, đó là Tỳ Kheo Bà Đề Lợi Ca này vậy.

Khi xưa tên ăn mày chúa cúng dường Ma Hồ Trà Ca cho vị Bích Chi Phật, do nhân duyên đó nên ngày nay được phước báo sinh trong dòng họ Thích, một đại hào quý tộc, cho đến của cải không thiếu một vật gì.

Lại thuở đó, tên ăn mày phát nguyện: Ở đời vị lai được sinh trong hào tộc đại oai đức, làm Vua trị hóa dân chúng. Do nghiệp nhân đó, nay được phước báo sinh trong nhà họ Thích, nhận lãnh ngôi Vua.

Lại thuở ấy tên ăn mày chúa lại nguyện: Vào thời vị lai, đời đời kiếp kiếp không đọa vào các đường ác, thường được lưu chuyển qua lại trong Cõi Trời người, hưởng nhiều diệu lạc.

Lại thuở ấy tên ăn mày chúa lại nguyện: Ở đời vị lai thường gặp được vị Bích Chi Phật Thế Tôn như vậy, hoặc là hơn thế nữa, những giáo pháp Thế Tôn nói ra, tôi nguyện nghe qua liền tỏ ngộ. Do nhân duyên ấy, ngày nay được phước báo gặp ta, được xuất gia thọ giới cụ túc, chứng quả A La Hán.

Ta lại ghi nhận: Trong hàng đệ tử Thanh Văn của ta, người hào quý nhất xuất gia, đó là Tỳ Kheo Bà Đề Lợi Ca.

Này các Tỳ Kheo, Bà Đề Lợi Ca xưa tạo các nhân duyên thiện căn như vậy, do nhân duyên thiện căn ấy nên nay sinh trong nhà họ Thích, thuộc chủng tộc hào quý, hết sức giàu sang, cho đến của cải không thiếu hụt, ở trong dòng họ Thích được nối ngôi Vua, mà xả bỏ ngôi Vua đi xuất gia, thọ giới cụ túc, chứng quảA La Hán.

Cho nên ta ghi nhận: ở trong hàng đệ tử Thanh Văn của ta, kẻ thuộc dòng họ hào quý xuất gia thì Bà Đề Lợi Ca là người bậc nhất.

Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca Sau khi chứng quảA La Hán, thường ở chỗ vắng vẻ, đi khất thực để sống, đắp y phấn tảo, thường ngồi không nằm, ngồi nơi thuận tiện, chỉ giữ ba y, lại không cất chứa vật gì khác. Một lúc nọ, Trưởng Lão ở chỗ vắng vẻ trong rừng cây thuộc thành Xá Bà Đề.

Trưởng Lão tìm cỏ và lá cây nhưng không có nên lượm phân khô của bạch tượng, nhóm lại làm chỗ ngồi. Trưởng Lão ngồi kiết già trên đống phân voi, thân thể ngay ngắn, nhiếp tâm chánh niệm trải qua một đêm. Sáng sớm hôm sau, Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca đắp y, mang bình bát, sắp vào thành Xá Bà Đề khất thực.

Bấy giờ trong thành này có nhiều ăn mày xin được đồ ăn xong, nên đi ra khỏi thành chẳng bao xa, mỗi người sắp ăn thức ăn của mình vừa mới xin được.

Lúc ấy Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca từ xa trông thấy các người ăn mày, sau khi xin thức ăn xong, rời khỏi thành chẳng bao xa, mỗi người ngồi mỗi chỗ sắp sửa ăn. Trưởng Lão đến bên những người này đứng yên lặng.

Bấy giờ tất cả ăn mày suy nghĩ: Vị Tỳ Kheo này cố ý thương mến chúng ta, cho nên đến đây khất thực. Nghĩ như vậy rồi, mỗi người tự giảm bớt một ít phần ăn của mình để cúng dường Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca.

Bấy giờ Vua Ba Tư Na, nước Kiều Tát La cỡi con bạch tượng tên là Nhất Phân Đà Lợi ra đi từ thành Xá Bà Đề cùng với một Đại Thần tên Thi Lợi Bạt Đà nhà Tùy dịch là Bĩ Hiền, khi ấy Vua Ba Tư Na nước Kiều Tát La Xa Xa trông thấy Bà Đề Lợi Ca khất thực nơi những người ăn mày để ăn, liền nói với Đai Thần Thi Lợi Bạt Đà: Này Thi Lợi Bạt Đà, đây là Tỳ Kheo nào mà xin thức ăn từ đám ăn mày để ăn như vậy?

Bấy giờ vị Đại Thần quán sát thấy rõ là Tỳ Kheo Bà Đề Lợi Ca, biết chắc chắn không sai, nên tâu Vua: Tâu Đại Vương, xin Ngài biết cho, đây là Tỳ Kheo Thích Bà Đề Lợi Ca.

Nhà Vua bảo vị Đại Thần: Nếu quả thật như vậy, khanh đánh bạch tượng đến chỗ Bà Đề Lợi Ca.

Đại Thần Thi Lợi Bạt Đà nghe Vua truyện lệnh, tâu: Y như lời Đại Vương dạy, xin vâng lệnh. Nhận lệnh rồi, vị Đại Thần đánh bạch tượng chở Vua đến chỗ Bà Đề Lợi Ca. Khi Vua Ba Tư Na nước Kiều Tát La đến gần Bà đề lợi ca, liền xuống voi, đảnh lễ dưới chân Trưởng Lão, rồi đứng lui về một bên.

Vua Ba Tư Na nước Kiều Tát La thưa Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca: Thánh Giả, ngày nay vì lý do gì có ý bần tiện, xin thức ăn ở nơi những kẻ ăn mày để ăn như vậy.

Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca nói với Vua Ba Tư Na Kiều Tát La: Này Đại Vương, tôi không phải bần cùng mà theo họ xin ăn. Tôi có bảy món của báu, ý tôi muốn theo những người nghèo đó xin ăn để cho họ được thoát cảnh bần cùng.

Đại Vương phải biết, tôi đã có con mắt trí tuệ, chỉ vì muốn phá màn vô minh cho chúng sinh nên đến đó xin ăn để mở con mắt tuệ cho họ.

Lại nữa, này Đại Vương, tôi đã thoát khỏi tất cả sự ràng buộc, chỉ vì chúng sinh bị tham dục, sân hận trói buộc nên tôi đến đó xin ăn để mở trói buộc cho họ.

Này Đại Vương, nay tôi đã vượt đến bờ giải thoát, chỉ vì muốn cứu vớt chúng sinh chìm đắm trong vũng bùn lầy phiền não nên tôi đến đó xin ăn.

Lại nữa, này Đại Vương, tôi nay đã đạt được đến chỗ không bệnh, chỉ vì muốn trị bệnh phiền não cho chúng sinh nên đến đó ăn xin.

Khi ấy Vua Ba Tư Na nước Kiều Tát La lại bạch Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca: Thưa Thánh Giả, trẫm cũng bần cùng không có bảy thứ báu. Trẫm cũng tối tăm, sống trong hắc ám. Trẫm cũng bị chìm đắm trong vũng bùn lầy phiền não. Trẫm nay cũng bị bệnh tham dục. Cúi xin Thánh Giả thương mến thường đến nội cung của trẫm.

Bấy giờ Trưởng Lão Bà Đề Lợi Ca nói với Vua Ba Tư Na Kiều Tát La: Này Đại Vương, Đại Vương chẳng cần làm như vậy. Nói như vậy rồi, Trưởng Lão từ giã nhà Vua mà đi.

*** 

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần