Phật Thuyết Kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân - Phần Chín
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trí Nghiêm, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH
BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trí Nghiêm, Đời Đường
PHẦN CHÍN
Trong mọi pháp bình đẳng
Pháp này là trên hết
Bình đẳng và bồ đề
Từ không phân biệt sinh.
Biết rồi, giảng người nghe
Mà chẳng hề thêm, bớt
Cũng từ pháp này sinh
Đó là A La Hán.
Nên vì chúng sinh này
Nói pháp không âm thanh
Giải thoát nhiều chúng sinh
Mà vẫn luôn bất động.
Chúng sinh không thật có
Và hai bên thường đoạn
Vì trừ các tà kiến
Khiến thoát mọi nỗi khổ.
Chấp các pháp sinh, diệt
Tướng vô vi, vô tác
Các chúng sinh khổ não
Do tưởng mà phân biệt.
Không hủy hoại sắc ấm
Đối thọ ấm cũng vậy
Tưởng, hành cùng với thức
Khiến lìa các chấp này
Đối pháp phàm phu này
Mà thấy có dời đổi
Trụ Phật Pháp, bất trụ
Đều khiến được giải thoát.
Chấp tưởng về các quả
Tưởng Duyên Giác cũng thế
Nói pháp cho chúng sinh
Khiến lìa tưởng chấp Phật.
Chấp đắm tâm bồ đề
Chấp về thí cũng thế
Người chấp về giới, nhẫn
Giảng nói pháp không đắm
Chấp thủ tưởng biếng nhác
Phân biệt hành tinh tấn
Tâm định với tâm loạn
Tuệ sai và tuệ đúng
Không phân biệt pháp này
Biết không có các tướng
Phải nên nói như thế
Đó gọi A La Hán.
Đắm chặt đối ngã tưởng
Thanh Văn nhiều phân biệt
Vì dứt bỏ phân biệt
Nên nói pháp cho nghe.
Cha mẹ và vợ con
Vô trí nên tham đắm
Chẳng phải đạo bồ đề
Là đi trong sinh tử
Đó là anh em ta
Chị em, tâm thương nhớ
Dứt bỏ tham ái đó
Nên gọi A La Hán.
Do vì khéo bàn nói
Tâm kẻ khác dấy vui
Phát tâm vui mạnh mẽ
Ý khởi mong được thấy
Trước sau các người thân
Nếu lúc được gặp gỡ
Xoay vần sinh ái chấp
Vì vô trí điên đảo
Thuộc ma, chẳng tự tại
Xa lìa các lợi dưỡng
Biết lỗi lầm lợi dưỡng
Nên vì các chúng sinh
Nói tội lỗi lợi dưỡng.
Đây là pháp phiền não
Đây là pháp giải thoát
Chẳng chấp hai chấp này
Đó là A La Hán.
Tham đắm các lợi dưỡng
Không thể tự hiểu biết
Dứt bỏ chấp đắm kia
Đó gọi A La Hán.
Đây là pháp tại gia
Đây là pháp xuất gia
Phàm phu sinh phân biệt
Nên cởi bỏ chấp kia
Đối với tất cả pháp
Mà thấy có thấp, cao
Chấp là khí, chẳng khí
Nên cởi bỏ chấp ấy.
Xa lìa pháp phàm phu
Mà duyên theo Phật Pháp
Nên nói pháp họ nghe
Lìa chấp được, chẳng được
Pháp lớn nhỏ chẳng bền
Người như thế rất nhiều
Nên cởi mở cho họ
Chúng sinh tướng như thế
Sinh ra các tướng tốt
Việc ấy cũng rất nhiều
Chỉ có người nhu hòa
Dứt bỏ được tưởng kia
Thế Giới mầu các Phật
Sinh khởi tâm tu tịnh
Chấp tưởng Thế Giới ấy
Phải nên dứt bỏ hết.
Niết Bàn, chẳng Niết Bàn
Sinh ra, chẳng thể sinh
Đây hành đạo bồ đề
Đấy chẳng cầu bồ đề.
Giới tốt và giới xấu
Có phước và không phước
Mọi chúng sinh ngu, trí
Sinh ra các thứ tưởng
Các chúng sinh như thế
Thường có rất nhiều tưởng
Vì dứt bỏ tưởng này
Nên nói pháp họ nghe
Đó là ruộng phước tốt
Đây chẳng phải ruộng phước
Phân biệt pháp ngu, trí
Việc ấy cũng rat nhiều.
Chấp thủ tưởng về nữ
Nên cũng phân biệt nam
Là Thánh, là chẳng Thánh
Phân biệt sinh nhị kiến
Chúng sinh không tâm tuệ
Sinh khởi hai kiến này
Lại chấp trước vào đó
Người chấp hai kiến này
Nên phải mau dứt bỏ.
Thoái chuyển, không thoái chuyển
Hữu ký và vô ký
Đó gần với bồ đề
Đó chẳng gần bồ đề
Đạt đến nẻo bồ đề
Rốt ráo nhập Niết Bàn
Hành các tướng như thế
Phân biệt đối Niết Bàn.
Chỉ có người nhu hòa
Dứt bỏ tưởng chúng sinh
Đó gọi A La Hán.
Cũng gọi bậc trừ tưởng
Đó là pháp Bồ Tát
Thuyết gọi A La Hán
Nếu thấy bản duyên này
Biết là A La Hán.
Như thế, này A Nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh Văn mà nói các Đại Bồ Tát là A La Hán.
Lại nữa, này A Nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ Tát đều là Thanh Văn?
A Nan nên biết! Các Đại Bồ Tát dùng âm thanh pháp Phật, dùng âm thanh pháp chẳng thể nghĩ bàn, dùng âm thanh pháp vắng lặng bồ đề, dùng âm thanh pháp không đùa bỡn, dùng âm thanh pháp thanh tịnh vô cấu, khiến cho vô lượng, vô biên không thể tính kể chúng sinh đều được nghe, nên gọi là Thanh Văn, lại dùng âm thanh pháp Niết Bàn an vui không gì sánh bằng, âm thanh pháp niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn lực, giác, đạo…
Khiến cho nhiều chúng sinh mau siêng năng can cầu, nên gọi là Thanh Văn. Nói thân này là không, chẳng phải pháp bền chắc, bền chắc không thật có, kẻ phàm phu si mê căn trí thấp kém nên tham đắm thân này, vì họ mà nói âm thanh giải thoát.
Lại nói về cái mà nhãn nhập thấy đều là luống dối, ứng theo mắt của sinh Phật, mắt pháp chẳng thể suy nghĩ bàn luận, dùng mắt Phật khiến cho nhiều chúng sinh không có âm thanh mê lầm.
Lại nói âm thanh các pháp không có tướng sinh, nên gọi là Thanh Văn.
Lại nói âm thanh được dụ như tiếng vang, chẳng nên đối với âm thanh mà sinh đắm nhiễm, không có người nghe, cũng không có người nói. Đối với mùi không có ý tưởng về ngửi, không có người ngửi mùi.
Như người trong mộng thấy mình ngửi nhiều mùi hương, nhưng thật ra không có mùi hương, cũng chẳng có người ngửi mùi hương, vì điên đảo nên nghĩ là có ngửi mùi, mùi hương này cũng như việc trong mộng, không đáng tin, cũng không bền chắc. Âm thanh để nói pháp này gọi là Thanh Văn.
Lại nói thiệt nhập cũng như cục thịt, không biết được về vị. Cục thịt này giống như chùm bọt nước không có thực. Tưởng về vị như thế không thể suy nghĩ bàn luận cảnh giới của vị là vô tâm, lìa các tâm pháp không nên sinh tâm, biết tâm là tướng không trụ. Âm thanh nói pháp như vậy khiến chúng sinh nghe, gọi là Thanh Văn.
Lại đối với pháp này biểu hiện rõ ràng, âm thanh thấy như thế nào thì có khả năng giảng nói.
Lại nói thân này là không, vô tướng, vô tánh, do vô tướng cho nên không sinh, cũng không có pháp sinh ra. Vì nhiều chúng sinh mà nói tiếng pháp bồ đề này gọi là Thanh Văn.
Lại nói ý nhập là không, không thật có, cũng không tự tánh, giống như cảnh huyễn, chẳng sinh chẳng diệt. Nói ra pháp thanh ấy gọi là Thanh Văn.
Lại nói pháp thí chẳng thể suy nghĩ bàn luận, pháp này có công năng chứng được bồ đề, bồ đề không thể suy nghĩ bàn luận, pháp thí cũng không thể suy nghĩ luận bàn.
Vì sao?
Vì như hạt giống, quả trái cũng như thế, trong đó không có quả, chỉ dùng âm thanh mà nói có quả.
Lại nói về thí tài thấp hèn, thí pháp cao thượng dứt bỏ tâm keo lận, không hề phân biệt, không sinh ý tưởng về bố thí. Giống như nhà ảo thuật đối với vật huyễn hóa ra không có phân biệt. Như vậy, vì không có tâm phân biệt mà thực hành bố thí có công năng sinh ra bồ đề.
Thuyết giảng về pháp thanh như vậy gọi là Thanh Văn. Pháp thanh ấy lìa tất cả lời nói, dứt hẳn các phiền não, vượt qua mọi lời nói, lìa các đắm nhiễm, dùng âm thanh ấy vì các chúng sinh giảng nói Phật Pháp.
Vì sao?
Vì đó là âm thanh trên hết trong tất cả các thứ âm thanh nên dùng âm thanh này để giảng nói Phật Pháp. Âm thanh ấy không thể phá hoại, cũng không hề nương tựa, vì được sinh ra từ không hai, không khác. Như chỗ sinh ra mà nói Phật Pháp không hai không khác.
Cho nên A Nan! Các vị Đại Bồ Tát dùng pháp thanh như thế khiến cho các chúng sinh nghe gọi là Thanh Văn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng:
Dùng âm thanh của Phật
Trên hết, chẳng nghĩ bàn
Khiến nhiều chúng sinh nghe
Bồ Tát là Thanh Văn
Nên vì nhiều chúng sinh
Nói bồ đề vắng lặng
Thanh tịnh không đùa bỡn
Đó gọi là Thanh Văn.
Giảng nói Niết Bàn vui
Vui ấy không gì sánh
Cũng nói tướng vắng lặng
Đó gọi là Thanh Văn.
Giảng niệm xứ, chánh cần
Căn, lực và giác, đạo
Mau sinh ra pháp này
Đó gọi là Thanh Văn
Nói thân này là không
Chẳng thể nào bền chắc
Vì những kẻ phàm ngu
Nói rõ tướng thân này,
Lại nói về nhãn nhập
Thấy gì đều luống dối
Các chúng sinh vô trí
Thấy gì cũng đắm nhiễm.
Nên sinh khởi mắt Phật
Mắt bình đẳng khó lường
Đối với pháp vô sinh
Cũng chẳng sinh mê đắm
Như âm thanh tiếng vang
Biết tai cũng như vậy
Trong đó, không người nghe
Cũng lại không người nói.
Do dứt mọi tướng ấy
Không người nghe, người nói
Chẳng nên sinh đắm nhiễm
Chỉ bày các chúng sinh
Đó gọi là Thanh Văn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba