Phật Thuyết Kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân - Phần Sáu
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trí Nghiêm, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH
BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trí Nghiêm, Đời Đường
PHẦN SÁU
Biết được Cõi Dục, Sắc
Cõi Vô Sắc là không
Tất cả đều bình đẳng
Đó gọi là bình đẳng
Cõi và bồ đề đồng
Không có các thứ tướng
Không trí, không phân biệt,
Thanh tịnh không đùa bỡn
Đạt đến bình đẳng này
Bồ Tát không nương tựa
Các âm thanh đã nói
Biến khắp đến các đường.
Các âm thanh đến đi
Đều trở về pháp giới
Ở trong pháp chẳng trụ
Được nhẫn tối thượng này.
Khéo hiểu tiếng chúng sinh
Vì nói pháp vắng lặng
Chẳng sinh tâm như vậy:
Ta vì chúng nói pháp
Đã vượt pháp âm thanh
Không chấp đắm các tướng
Rõ các pháp vắng lặng
Đó gọi là tám bậc.
Đã được các âm thanh
Thông đạt cõi âm thanh
Không đắm mê âm thanh
Nên gọi là tám bậc
A Nan chính vì thế
Nên gọi là tám bậc
Tuy giảng nói như vậy
Kỳ thật chẳng thật có.
Như vậy, này A Nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh Văn mà nói các vị Đại Bồ Tát được gọi là tám bậc.
Lại nữa, này A Nan! Vì sao Như Lai nói Đại Bồ Tát được gọi là Tu Đà Hoàn?
A Nan nên biết! Phật Đạo không thể suy nghĩ bàn luận được. Các Đại Bồ Tát an trụ nơi Vô sở trụ, gần với Phật Đạo. Không thọ nhận các pháp, không có chốn nương tựa, cũng không chốn duyên hợp, không chấp các pháp, rốt ráo không sinh, Đại Bồ Tát vì được đạo này nên tinh tấn vững chắc, suy nghĩ vững chắc.
Không có biếng nhác, không bao giờ trái nghịch, tâm không nương tựa, đối với đạo xuất ly vô thượng tối thắng mà các Đức Phật nương theo không hề tham đắm, cũng không chấp trước. Dùng đạo như thế để suy tìm các pháp, tuy là suy tìm mà không thật có.
Đối với đạo ấy không động không trụ, mọi tư tưởng về đạo, về sinh tử, về Phật có công năng sinh ra bình đẳng, đối với các pháp chướng ngại được bình đẳng, các pháp bình đẳng, các Đức Phật bình đẳng. Xa lìa thân kiến, sinh ra Phật kiến, khai ngộ các kiến. Đại Bồ Tát tu tưởng đối trị, đã vượt qua ngã tưởng.
Này Tôn Giả A Nan! Chính vì vậy mà Đại Bồ Tát được gọi là Tu Đà Hoàn. Bậc Đại Bồ Tát không tham đắm Phật Đạo, nên đạt được đạo vô nhiễm, không nghi ngờ bồ đề của Phật, không lựa chọn giới, cho đến không thấy có giơi của Phật. Vì không thấy có giới luật nên không còn lựa chọn giới, không phân biệt giới, đoạn hẳn ba kết, không trụ trong ba cõi.
Bậc Đại Bồ Tát đã đạt được Phật Đạo, lìa các vọng tưởng của chúng sinh, không có chốn nương tựa, lìa pháp nương tựa. Chuyên cầu Phật Đạo, được đạo an ổn vắng lặng, không tiếc thân mạng. Với tâm hoan hỷ có thể xả bỏ tất cả các vật, dung mạo luôn vui vẻ hòa nhã, không chút buồn phiền. Vì sự giác ngộ giải thoát mà thực hành bố thí, không có một vật nhỏ nào mà không thể xả bỏ.
Nhằm cứu giúp chúng sinh khổ, đưa họ đến Niết Bàn, tu pháp hữu tướng, được pháp vô tướng. Các Đại Bồ Tát xa lìa tất cả tưởng chấp của chúng sinh, nhập vào các nẻo không sợ, nói pháp vắng lặng, đạo bồ đề thanh tịnh, dứt những lo sợ, kể cả nỗi sợ về cái chết.
Vì sao?
Vì đã được pháp vắng lặng, lìa bỏ tất cả phiền não, an trụ nơi Phật Đạo, khéo tu tập chuyển các nẻo ác đạt tới sự bình đẳng, dứt các đùa bỡn.
Này A Nan! Do những lẽ ấy mà các vị Đại Bồ Tát được gọi là Tu Đà Hoàn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng:
Phật Đạo chẳng nghĩ bàn
Gọi là Tu Đà Hoàn
Nếu ai trụ đạo ấy
Sẽ vào dòng bồ đề
Đạo ấy như hư không
Chẳng nương tất cả pháp
Chẳng duyên, chẳng chỗ trụ
Tất cả không thật có.
Bồ Tát luôn tinh tấn
Nên đạt được pháp ấy
Các Phật dẫn dắt đời
Đạo xuất ly vô thượng
Không đắm nhiễm đạo này
Cũng chẳng trụ trong đó
Dùng đạo ấy tìm cầu
Không thấy tất cả pháp.
Đạo ấy không dao động
Cũng không trụ trong đó
Luôn tinh tấn như Phật
Chẳng trái, không nương tựa.
Tưởng sinh tử đã nói
Phật tưởng cũng như vậy
Đạt đến bình đẳng này
Biết là Tu Đà Hoàn.
Mọi kết sử ngăn che
Che lấp mất Phật Đạo
Tất cả nên xa lìa
Đó là Tu Đà Hoàn.
Dứt bỏ được thân kiến
Mà sinh ra Phật kiến
Khai ngộ các tà kiến
Khéo tu đối trị tưởng
Khéo tu tưởng tự thân
Biết lỗi lầm ngã tưởng.
Đó gọi Tu Đà Hoàn.
Chẳng mê đắm Phật Đạo
Nếu sinh do dự ấy
Ta chẳng đạt Bồ Đề
Liền được không nhiễm đắm
Mà mong cầu Phật Đạo
Cũng chẳng lựa chọn giới
Chẳng phân biệt giới luật
Đã dứt trừ tưởng giới
Không phân biệt giới luật
Dứt hẳn ba thứ kết
Chẳng trụ trong ba cõi
Đã đạt được Phật Đạo
Khéo tu tưởng chúng sinh
Dùng đạo không chỗ duyên
Mà mong cầu bồ đề
Đã được đạo vắng lặng
Bồ đề vô cấu Phật
Thích tu hành bố thí
Vui vẻ không buồn phiền
Chẳng hề tiếc thân mạng
Vì đạo không đùa bỡn
Vì chúng sinh khổ não
Tất cả đều xả bỏ
Khiến vượt Tu Đà Hoàn
Trên quả vị Thắng diệu
Xa lìa tưởng ba cõi
Khéo thông đạt vô tưởng
Do đó nên không có
Tiếng xấu, các sợ hãi
Pháp, phi pháp đã nói
Cả hai đều xa lìa
Trong đó chẳng nhiễm đắm
Không hề sợ tiếng xấu
Khi vào chốn đông người
Tâm không hề sợ hãi
Giảng nói pháp vắng lặng
Đã tịnh đạo bồ đề
Dứt khởi tưởng chúng sinh
Sinh ra sự chân thật
Do vậy nên vô cấu
Xa lìa nỗi lo sợ
Đã lìa những nỗi sợ
Cho đến không còn sợ
Đạt được đạo vắng lặng
An ổn không gì hơn
Biết đường ác bình đẳng
Nhưng chẳng sinh sợ hãi
Đạo ấy hiển hiện ngay
Dứt những tưởng ta, tôi.
Bồ Tát rõ pháp đó
Gọi là Tu Đà Hoàn.
Vì kẻ ưa pháp nhỏ
Mà giảng nói như vậy
Dùng phương tiện khéo léo
Giảng nói về Phật Pháp
Kẻ buông lung với đạo
Khiến lãnh hội pháp ấy
Chư Phật, Bậc Đạo Sư
Bỏ phương tiện mà nói
Vì những người tu lâu
Mong cầu đạo Tối thắng.
Vì thế nên A Nan
Ta nói Tu Đà Hoàn
Các chúng sinh thông minh
Thì hiểu được việc ấy.
Vì thế nên A Nan
Ta nói Tu Đà Hoàn
Chúng sinh không thông minh
Lầm phân biệt việc này.
Những hạng tâm trí kém
Khó lãnh hội mật ngữ
Tâm ngu sinh tranh chấp
Không hiểu nghĩa nhiệm mầu,
Đầy đủ cả trăm pháp
Nên gọi Tu Đà Hoàn
Dùng tên Tu Đà Hoàn
Hiểu bày các Phật Pháp.
Như thế, này A Nan! Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh Văn mà nói các Đại Bồ Tát được gọi là Tu Đà Hoàn.
Lại nữa, này A Nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ Tát được gọi là Tư Đà Hàm?
A Nan nên biết! Các Đại Bồ Tát tu học theo trí tuệ Phật, hiểu rõ là giác ngộ chẳng từ các duyên sinh, vì trí không duyên mà mong cầu trí Phật, dùng các nhân duyên để mong đạt đến thiền định không có nơi chốn. Mong đạt đến trí tuệ Phật để thiêu đốt các phiền não, nhờ thiêu đốt các phiền não mà đạt được các pháp bình đẳng của Phật, mong cầu pháp chưa được như các Đức Phật Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Đại Bồ Tát tuy hóa độ chúng sinh nhưng bất động đối với chúng sinh, mong cầu bất động đối với cõi chúng sinh, có các chúng sinh tâm trí tuệ yếu kém, thường lo buồn khổ não không hiểu được pháp giới, Đại Bồ Tát muốn cho họ trụ trong trí tuệ nên cầu trí Phật.
Đại Bồ Tát luôn tu tập các phẩm căn, lực, giác, giải thoát, chánh định, vì để mình được giác ngộ trước, rồi giác ngộ cho chúng sinh. Mà mong cầu trí tuệ Phật, trí vận dụng này có công năng đưa đến Đạo Tràng, vì đạt được trí này mà cầu được mắt Phật, Phật trí, là mắt vô chướng ngại, không thể suy nghĩ bàn luận thường dùng mắt này làm lợi ích cho thế gian.
Vì cầu mắt trí này cho nên mong đạt được trí tuệ hơn hết trong các trí tuệ cũng như đối với các lực dụng của nó, từ đó biết tất cả pháp là như như, cũng gọi là không thật có. Trí tuệ ấy cũng như diệu dụng của nó nhằm khiến cho tất cả chúng sinh an trụ ở trong trí ấy, tức là trí tuệ không chấp tất cả pháp. Do sự việc như vậy nên đến cõi này, đến rồi thấy cõi chúng sinh là cõi chẳng thể nghĩ bàn.
Cầu cõi này mà chẳng thấy mình được cõi này, thắc mắc chúng sinh từ đâu mà sinh, không biết chỗ sinh của chúng sinh, từ cõi chúng sinh có những tên gọi khác nhau. Khi quán sát pháp giới và cõi chúng sinh không thấy tướng khác nhau này, thấy cõi chúng sinh đều nhap vào pháp giới, thấy chúng sinh là đạo bình đẳng, đạo Phật Pháp, là đạo chúng sinh không thật có, là đạo chúng sinh có trí bình đẳng.
Đại Bồ Tát vì mong đạt đến trí tuệ không gì so sánh này, là thứ trí tuệ thanh tịnh, dứt sạch phiền não. Trí ấy là vô đắc nên không thể mong cầu đạt tới. Phải biết trí ấy là trí vô sở tri.
Các Đại Bồ Tát nhờ trí này mà có khác nhau. Vì chưa đạt được trí tuệ ấy, vì mong đạt được trí tuệ ấy mà đến cõi nay.
Này A Nan! Do những việc ấy mà các Đại Bồ Tát được gọi là Tư Đà Hàm.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh ánh Sáng Hoàng Kim - Phẩm Mười - Phẩm Mãn Nguyện Vì Không
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Bảy - Phẩm Dạy Bảo Trao Truyền - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Phật Danh - Phần Hai Mươi Năm
Kinh Chú Mâu Lê đà La Ni - Phần Một