Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Bốn - Bốn Pháp - Phẩm Mười Ba - Phẩm Sợ Hãi - Phần Hai - Sóng Biển
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT
KINH TĂNG CHI BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
CHƯƠNG BỐN
BỐN PHÁP
PHẨM MƯỜI BA
PHẨM SỢ HÃI
PHẦN HAI
SÓNG BIỂN
Có bốn sự sợ hãi này, này các Tỳ Kheo, được chờ đợi với người đi xuống nước.
Thế nào là bốn?
Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước xoáy, sợ hãi về cá dữ. Có bốn sự sợ hãi này, này các Tỳ Kheo, được chờ đợi với người đi xuống nước.
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, ở đây, đối với một số thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong pháp và luật này, có bốn sự sợ hãi được chờ đợi.
Thế nào là bốn?
Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước xoáy, sợ hãi về cá dữ.
Và này các Tỳ Kheo, thế nào là sợ hãi về sóng?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, có thiện gia Nam Tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Ta nay bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này.
Khi được xuất gia như vậy, vị này được các vị đồng phạm hạnh giảng dạy, khuyên giáo: Thầy cần phải đi ra như vậy, thầy cần phải đi về như vậy, thầy cần phải ngó tới như vậy, thầy cần phải ngó quanh như vậy. Thầy cần phải co tay như vậy, thầy cần phải duỗi tay như vậy, thầy cần phải mang y sang Hati như vậy, mang bát y như vậy.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Trước kia, khi chúng ta chưa xuất gia, chính chúng ta giảng dạy, khuyên giáo người khác. Những người này giống như con chúng ta, giống như cháu chúng ta, lại nghĩ rằng cần phải giảng dạy chúng ta, cần phải khuyên giáo chúng ta. Vị ấy phẫn nộ, không hoan hỷ, từ bỏ học tập và trở về hoàn tục.
Như vậy, này các Tỳ Kheo, người này được gọi là vị Tỳ Kheo bị sợ hãi về sóng. Này các Tỳ Kheo sợ hãi về sóng là đồng nghĩa với phẫn não. Này các Tỳ Kheo đây gọi là sợ hãi về sóng.
Và này các Tỳ Kheo, thế nào là sợ hãi về cá sấu?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, có thiện gia nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Ta nay bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này.
Khi được xuất gia như vậy, vị này được các vị đồng phạm hạnh giảng dạy, khuyên giáo: Thầy cần phải nhai cái này, thầy không nên nhai cái này. Thầy nên ăn cái này, thầy không nên ăn cái này. Thầy nên nếm cái này, thầy không nên nếm cái này. Thầy nên uống cái này, thầy không nên uống cái này. Cái gì thầy được phép, thầy nên nhai.
Cái gì thầy không được phép, thầy không nên nhai. Cái gì được phép, thầy nên ăn. Cái gì không được phép, thầy không nên ăn.
Cái gì được phép, thầy nên nếm, cái gì không được phép, thầy không nên nếm. Cái gì được phép, thầy nên uống, cái gì không được phép, thầy không nên uống. Đúng thời, thầy nên nhai.
Không đúng thời, thầy không nên nhai. Đúng thời, thầy nên ăn. Không đúng thời, thầy không nên ăn. Đúng thời, thầy nên nếm. Không đúng thời, thầy không nên nếm. Đúng thời, thầy nên uống. Không đúng thời, thầy không nên uống.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Trước kia, khi chúng ta chưa xuất gia, cái gì chúng ta muốn, chúng ta nhai, cái gì chúng ta không muốn, chúng ta không nhai. Cái gì chúng ta muốn, chúng ta ăn. Cái gì chúng ta không muốn, chúng ta không ăn. Cái gì chúng ta muốn, chúng ta nếm. Cái gì chúng ta không muốn, chúng ta không nếm.
Cái gì chúng ta muốn, chúng ta uống. Cái gì chúng ta không muốn, chúng ta không uống. Cái gì được phép, chúng ta nhai. Cái gì không được phép, chúng ta cũng nhai. Cái gì được phép, chúng ta ăn. Cái gì không được phép, chúng ta cũng ăn.
Cái gì được phép, chúng ta nếm. Cái gì không được phép, chúng ta cũng nếm. Cái gì được phép, chúng ta uống. Cái gì không được phép, chúng ta cũng uống. Cái gì đúng thời, chúng ta nhai. Cái gì không đúng thời, chúng ta cũng nhai.
Cái gì đúng thời, chúng ta ăn. Cái gì không đúng thời, chúng ta cũng ăn. Cái gì đúng thời, chúng ta nếm. Cái gì không đúng thời, chúng ta cũng nếm. Cái gì đúng thời, chúng ta uống. Cái gì không đúng thời, chúng ta cũng uống.
Khi các gia đình có tín tâm cúng dường chúng ta ban ngày, phi thời, những món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, hình như những món này, chúng ta bị chận đứng lại trên miệng.
Như vậy, vị ấy từ bỏ học tập và trở về hoàn tục. Này các Tỳ Kheo, đây được gọi là vị Tỳ Kheo bị sợ hãi với sự sợ hãi về cá sấu, này các Tỳ Kheo, là đồng nghĩa với tham ăn. Này các Tỳ Kheo, đây gọi là sự sợ hãi về cá sấu.
Và này các Tỳ Kheo, thế nào là sợ hãi về nước xoáy?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, có thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Ta nay bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này.
Khi được xuất gia như vậy, vị này buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào làng hay thị trấn để khất thực, không phòng hộ thân, không phòng hộ lời, không phòng hộ tâm, niệm không an trú, các căn không phòng hộ, hưởng thụ được cung cấp đầy đủ, được thực hiện năm dục trưởng dưỡng và cảm thấy hoan hỷ trong ấy.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Chúng ta xưa kia chưa xuất gia đã hưởng thọ, được cung cấp đầy đủ, được thực hiện năm dục trưởng dưỡng và cảm thấy hoan hỷ trong đó. Vì nhà ta có tài sản, ta có thể vừa hưởng thụ tài sản, vừa làm các công đức. Vị ấy từ bỏ học tập và trở về hoàn tục.
Này các Tỳ Kheo, đây được gọi là vị Tỳ Kheo bị sợ hãi bởi sự sợ hãi về nước xoáy, từ bỏ học tập, trở về hoàn tục. Này các Tỳ Kheo, sợ hãi về nước xoáy là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Này các Tỳ Kheo, đây gọi là sợ hãi về nước xoáy.
Và này các Tỳ Kheo, thế nào là sợ hãi về cá dữ?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, có Thiện Nam Tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Ta bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này.
Khi được xuất gia như vậy, vị này buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào làng hay thị trấn để khất thực, không phòng hộ thân, không phòng hộ lời, không phòng hộ tâm, niệm không an trú, các căn không chế ngự.
Vị này thấy ở đây những phụ nữ mặc y phục không đoan chánh hay đắp y phục không đoan chánh. Khi thấy những phụ nữ mặc y phục không đoan chánh hay đắp y phục không đoan chánh, ái dục phá hoại tâm của vị ấy.
Vị này, tâm bị ái dục phá hoại, từ bỏ học tập, trở về hoàn tục. Này các Tỳ Kheo, đây gọi là vị Tỳ Kheo bị sợ hãi bởi sự sợ hãi về cá dữ, từ bỏ học tập, trở về hoàn tục.
Này các Tỳ Kheo, sợ hãi về cá dữ là đồng nghĩa với phụ nữ. Này các Tỳ Kheo, đây gọi là sợ hãi về cá dữ. Này các Tỳ Kheo, có bốn sự sợ hãi này, ở đây, một số thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong pháp và luật này.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Tám - Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Bốn Mươi Tám - phẩm Thành Biện
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Sáu Mươi - Kinh Bóng Vàng đáy Nước
Phật Thuyết Kinh Chuyển Pháp Luân Tồi Ma Oán địch Pháp