Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Bốn Mươi Ba - Phẩm Thiên Tử Mã Huyết Hỏi Bát Chánh - Phần Hai

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG NHẤT A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn  

PHẨM BỐN MƯƠI BA

PHẨM THIÊN TỬ MÃ HUYẾT

HỎI BÁT CHÁNH  

PHẦN HAI  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Nay ta sẽ nói về pháp bát quan trai Hiền Thánh, các thầy khéo suy nghĩ ghi nhớ, tùy hỷ vâng làm. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe lời Phật dạy.

Thế Tôn bảo: Thế nào gọi là pháp bát quan trai?

Một là không sát sanh.

Hai là không trộm cắp.

Ba là không tà dâm.

Bốn là không vọng ngữ.

Năm là không uống rượu.

Sáu là không ăn phi thời.

Bảy là không nằm giường cao rộng.

Tám là xa lìa hát xướng, hương hoa thoa thân.

Này Tỳ Kheo! Ðó là pháp bát quan trai Hiền Thánh.

Khi ấy, Ưu Ba Ly bạch Phật: Làm thế nào tu hành pháp bát quan trai?

Ðức Phật bảo: Ở đây này Ưu Ba Ly! Thiện nam tử, thiện nữ nhân vào các ngày mùng tám, mười bốn, rằm, đến chỗ các Sa Môn, hoặc Tỳ Kheo Trưởng Lão, tự xưng tên, từ sáng đến chiều, như A La Hán, giữ tâm không thay đổi, không lay động, không dùng dao gậy với quần sanh, lòng từ khắp tất cả.

Nay ta thọ Trai Pháp, không phạm một điều, không khởi tâm sát, tập theo lời dạy của bậc chân nhân, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn phi thời, không nằm giường cao rộng, không tập hát xướng đánh đàn, hoa hương xoa thân.

Nếu người có trí tuệ, nên nói như thế. Nếu người không trí tuệ, nên dạy họ như thế. Lại, Tỳ Kheo kia nên chỉ dạy cặn kẽ, đừng để mất, cũng chớ vượt thứ lớp. Lại nên dạy họ phát thệ nguyện.

Ưu Ba Ly bạch Phật: Nên phát nguyện thế nào?

Phật bảo:

Người kia phát nguyện rằng: Nay con do pháp bát quan trai này, không rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng không rơi vào chỗ bát nạn, không ở biên địa, không rơi chỗ hung ác, không theo ác tri thức.

Thờ phụng cha mẹ, chuyên chánh không tập tà kiến, sanh vào trung tâm của Quốc Gia, nghe pháp lành này, phân biệt suy nghĩ, thành tựu từng pháp.

Đem công đức giữ gìn trai pháp này, nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sanh. Đem công đức này bố thí người ấy, khiến thành đạo vô thượng chánh chân.

Đem phước báu thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam Thừa khiến không thối chuyển nửa chừng. Lại nữa, pháp bát quan trai này được dùng để học Phật Đạo, Bích Chi Phật Đạo, A La Hán đạo. Người học chánh pháp trên Thế Giới cũng tập nghĩa này.

Giả sử đời vị lai, khi Đức Phật Di Lặc xuất hiện, bậc Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, ai gặp hội của Ngài khiến đúng thời được độ.

Thời Đức Phật Di Lặc ra đời, Thanh Văn có ba hội. Hội thứ nhất có chín mươi sáu ức chúng Tỳ Kheo, hội thứ hai có chín mươi bốn ức chúng Tỳ Kheo, hội thứ ba có chín mươi hai ức chúng Tỳ Kheo, đều là bậc A La Hán các lậu đã hết. Vua nước ấy và bậc thầy giáo thọ của Quốc Gia cũng sẽ dạy những lời như thế, không thể thiếu sót.

Khi ấy, Tôn Giả Ưu Ba Ly bạch Phật: Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân kia, tuy giữ Pháp Bát Quan Trai, trong ấy không phát thệ nguyện, có được công đức lớn chăng?

Ðức Phật bảo: Tuy được phước, phước ấy không đủ.

Vì sao?

Nay ta sẽ nói. Thời quá khứ có vua tên Bảo Nhạc, dùng pháp trị dân không cong vạy, thống lãnh cảnh giới Diêm Phù Đề này.

Bấy giờ có Đức Phật Hiệu là Bảo Tạng Như Lai, Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở thế gian.

Nhà Vua có người con gái tên là Mâu Ni, dung mạo rất đặc biệt thù thắng, sắc mặt như hoa đào, đều do đời trước cúng dường Chư Phật mà được như vậy.

Bấy giờ, Đức Phật kia cũng có ba hội Thanh Văn.

Hội ban đầu có một ức sáu vạn tám ngàn chúng.

Hội thứ hai có một ức sáu vạn chúng.

Hội thứ ba có một ức ba vạn chúng.

Ðều là bậc A La Hán, các lậu đã hết.

Lúc ấy, Đức Phật kia vì các đệ tử thuyết pháp như thế này: Các Tỳ Kheo! Nên nhớ Tọa Thiền, chớ giải đãi, lại cần tìm phương tiện tụng tập Kinh giới. Vị thị giả của Đức Phật tên Mãn Nguyện, đa văn đệ nhất, như Tỳ Kheo A Nan của ta ngày nay đa văn hơn hết.

Khi ấy, Tỳ Kheo Mãn Nguyện, bạch Đức Phật Bảo Tạng: Có các Tỳ Kheo các căn chậm chạp, u tối, cũng không tinh tấn đối với pháp thiền định, cũng không tụng tập.

Hôm nay Thế Tôn sẽ xếp những người như thế vào nhóm nào?

Ðức Phật Bảo Tạng dạy: Nếu như có Tỳ Kheo các căn ám độn, không kham thực hành pháp thiền, nên tu về ba pháp nghiệp của bậc Thượng Nhân.

Thế nào là ba?

Là Tọa Thiền, tụng Kinh, siêng năng giúp đỡ việc chúng. Như thế, Đức Phật kia vì các đệ tử nói pháp vi diệu như thế. Bấy giờ, có một Tỳ Kheo Trưởng Lão cũng không kham tu hành pháp thiền.

Tỳ Kheo kia bèn nghĩ rằng: Nay ta tuổi già yếu, không thể tu pháp thiền, nay ta nên tìm cách làm theo pháp siêng năng giúp đỡ. Khi ấy, Tỳ Kheo Trưởng Lão kia đi vào thành Dã Mã, xin dầu thắp đèn về cúng dường Đức Phật Bảo Tạng, khiến cho ánh sáng không dứt.

Công chúa Mâu Ni thấy Tỳ Kheo Trưởng Lão này đi xin trên các đường phố, liền hỏi: Thầy Tỳ Kheo! Hôm nay thầy cần gì?

Tỳ Kheo đáp: Công chúa nên biết!

Tôi tuổi đã già, không kham tu hành pháp thiền, nên đi xin các loại dầu để cúng dường Phật, tiếp tục ánh sáng của bậc Tôn Quý.

Khi ấy, công chúa nghe danh hiệu Phật, vui mừng phấn khởi không thể dừng, liền thưa với Tỳ Kheo Trưởng Lão: Tỳ Kheo! Nay thầy đừng đi xin các nơi khác, tôi sẽ tự cung cấp các loại dầu đèn, thảy đều bố thí đủ hết. Tỳ Kheo Trưởng Lão nhận sự bố thí của công chúa, mỗi sáng đến lấy dầu cúng dường Đức Phật Bảo Tạng. Thầy nguyện đem công đức phước nghiệp này, hồi hướng về đạo vô thượng chánh chân.

Miệng tự nói rằng: Tuổi đã già lại căn tánh chậm, không có trí tuệ thực hành được pháp thiền, đem công đức này, nơi sanh ra không rơi vào đường ác, khiến đời tương lai được gặp đấng Thế Tôn như Đức Phật Bảo Tạng hiện nay không khác. Cũng được gặp Thánh Chúng như Thánh Chúng hiện nay không khác, nói pháp cũng như hiện nay không khác.

Khi ấy, Đức Phật Bảo Tạng biết ý niệm trong tâm thầy Tỳ Kheo kia, liền mỉm cười, trong miệng phát ra hào quang năm sắc mà bảo rằng: Này Tỳ Kheo! Qua vô số kiếp đời vị lai, thầy sẽ làm Phật Hiệu Ðăng Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Khi ấy, Tỳ Kheo Trưởng Lão vui mừng hớn hở không thể tự kềm, thâm tâm vững chắc, ý không thối chuyện, nhan sắc đặc biệt không giống ngày thường.

Công chúa Mâu Ni thấy Tỳ Kheo ấy dung mạo đặc biệt hơn ngày thường, liền hỏi: Tỳ Kheo! Hôm nay sắc diện rất là thù diệu, không giống ngày thường, có điều đắc ý?

Tỳ Kheo đáp: Công chúa nên biết, vừa rồi Như Lai dùng Cam Lồ rưới lên đảnh tôi.

Công chúa Mâu Ni hỏi: Như Lai dùng Cam Lồ rưới trên đảnh thế nào?

Tỳ Kheo đáp: Tôi được Đức Như Lai Bảo Tạng thọ ký, nói rằng qua tương lai vô số A tăng kỳ kiếp, tôi sẽ làm Phật, hiệu là Ðăng Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Thâm tâm tôi vững chắc, ý không thối chuyển. Như thế, Công Chúa, vì tôi được Như Lai thọ ký.

Công Chúa hỏi: Ðức Phật không thọ ký cho tôi ư?

Tỳ Kheo Trưởng Lão đáp: Tôi cũng không biết có thọ ký cho Công Chúa chăng?

Công Chúa nghe thầy Tỳ Kheo nói rồi, liền cưỡi xe vũ bảo, đến chỗ Đức Phật Bảo Tạng, cúi đầu lễ chân Phật lui ngồi một bên.

Công chúa bạch Phật: Nay con là Đàn Việt thí chủ, thường cung cấp các thứ dầu cần dùng. Mà nay Thế Tôn thọ ký cho thầy Tỳ Kheo, riêng không thọ ký cho con.

Ðức Phật Bảo Tạng đáp: Phát tâm cầu nguyện, phước ấy khó lường, huống gì dùng tài vật bố thí.

Công Chúa Mâu Ni thưa: Nếu Như Lai không thọ ký cho con, con sẽ tự đoạn mạng sống của mình.

Ðức Phật Bảo Tạng đáp: Làm thân người nữ, cầu làm Chuyển Luân Thánh Vương không được, cầu làm Ðế Thích cũng không được, cầu làm Tam Thiên Đại Thiên Vương cũng không được, cầu làm Ma Vương cũng không được, cầu làm Phật cũng không được.

Công chúa thưa: Nhất định con không thể thành đạo vô thượng được ư?

Phật Bảo Tạng đáp: Ðược, Công Chúa Mâu Ni được thành đạo vô thượng chánh chân. Song Công Chúa nên biết, về tương lai qua vô số A tăng kỳ kiếp có Phật ra đời, đó là thiện tri thức của cô, Đức Phật kia sẽ thọ ký cho cô.

Khi ấy, Công Chúa Bạch Phật: Người nhận thanh tịnh, còn thí chủ uế trược chăng?

Phật Bảo Tạng đáp: Những gì ta nói hôm nay, là tâm ý thanh tịnh, phát nguyện vững chắc. Công Chúa nói xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, đi quanh Phật ba vòng rồi lui ra.

Ưu Ba Ly nên biết!

Qua vô số a tăng kỳ kiếp, Phật Ðăng Quang xuất hiện ở đời tại nước lớn tên là Bát Đầu Ma, cùng với chúng Ðại Tỳ Kheo mười sáu vạn tám ngàn người câu hội. Quốc Vương và nhân dân nước ấy đều đến kính thờ Phật.

Khi ấy, nước kia có Vua tên Ðề Bà Diên Na, dùng pháp trị hóa, thống lãnh cõi Diêm Phù Đề. Nhà Vua thỉnh Phật và chúng Tỳ Kheo đến để cúng dường trai phạn.

Bấy giờ, Đức Phật Ðăng Quang sáng sớm đắp y mang bát, dẫn chúng Tỳ Kheo vào thành. Khi ấy, có một Phạm Chí tên Di Lặc, gương mặt đoan chánh, riêng vượt hơn mọi người, như là Tam Thiên Đại Thiên, thông suốt các Kinh Tạng thảy đều quán triệt, các sách vở, chú thuật, thảy đều rành rẽ, thiên văn, địa lý thảy đều biết rõ.

Phạm Chí kia xa thấy Phật Ðăng Quang đi đến, dung mạo đặc biệt thù thắng, phi thường hơn đời, các căn vắng lặng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân.

Thấy rồi liền phát khởi lòng hoan hỷ, sanh lòng lành nghĩ rằng: Các sách vở ghi chép việc Như Lai xuất hiện rất là khó gặp, đúng thời mới xuất hiện như hoa Ưu Bát đúng thời mới xuất hiện, nay ta nên đến thử.

Khi ấy, Phạm Chí tay cầm năm cành hoa, đến chỗ Thế Tôn, lại khởi nghĩ thế này: Ai có đủ ba mươi hai tướng tốt gọi là thành Phật. Ông liền đem năm cành hoa tung lên mình Phật, và mong thấy được ba mươi hai tướng tốt.

Song ông chỉ thấy ba mươi tướng, mà không thấy thêm hai tướng nữa, liền khởi hồ nghi: Nay quan sát Thế Tôn, không thấy được tướng lưỡi rộng dài và tướng mã âm tàng.

Ông liền nói kệ:

Nghe có ba hai tướng

Tướng mạo của Đại Nhân

Nay không thấy hai tướng

Tướng hảo có đủ chăng?

Có tướng mã âm tàng

Trinh khiết không dâm chăng?

Có tướng lưỡi rộng dài

Chấm tai, trùm mặt chăng?

Vì tôi hiện tướng ấy,

Ðể dứt các hồ nghi,

Mã âm và tướng lưỡi

Xin nguyện muốn thấy đó.

Khi ấy, Đức Phật Ðăng Quang liền nhập chánh định khiến Phạm Chí thấy được hai tướng ấy. Ðức Phật Ðăng Quang liền bày tướng lưỡi rộng dài, liếm trùm cả mặt, phóng ánh sáng lớn, trở lại từ đảnh chui vào.

Phạm Chí thấy Đức Phật có đầy đủ ba mươi hai tướng, thấy rồi vui mừng hớn hở không thể tự kềm, rồi nói thế này: Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho con, ngày nay dùng năm cành hoa dâng lên Như Lai, và đem thân này cúng dường bậc Tôn Thánh. Khi phát thệ này, năm cành hoa ở trên không trung hóa thành đài báu, rất thù diệu, có bốn trụ bốn cửa.

Phạm Chí thấy đài báu, vui mừng hớn hở không thể tự kềm, phát lời nguyện: Xin cho con đời sau được làm Phật như Đức Phật Ðăng Quang, đệ tử đồ chúng thảy đều như thế. 

Khi ấy, Đức Phật Ðăng Quang biết ý nghĩ trong tâm Phạm Chí liền mỉm cười. Pháp thường của Chư Phật, khi thọ ký thì Phật mỉm cười, trong miệng phát ra hào quang năm sắc chiếu khắp Tam Thiên Đại Thế Giới, Mặt Trời, Mặt Trăng không còn ánh sáng, ánh sáng ấy lại từ đảnh mà vào.

Nếu khi thọ ký thành Phật thì ánh sáng từ đảnh vào.

Nếu khi thọ ký thành Bích Chi Phật, ánh sáng từ miệng phát ra lại trở vào lỗ tai.

Nếu thọ ký thành Thanh Văn, thì ánh sáng trở vào vai.

Nếu thọ ký sanh lên Trời, lúc ấy ánh sáng trở vào cánh tay.

Nếu thọ ký sanh loài người, ánh sáng trở vào hai bên hông.

Nếu thọ ký sanh ngạ quỷ, thời ánh sáng trở vào nách.

Nếu thọ ký sanh súc sanh, ánh sáng trở vào đầu gối.

Nếu thọ ký sanh địa ngục, ánh sáng đi vào gót chân.

Khi ấy, Phạm Chí thấy ánh sáng trở vào đỉnh đầu, vui mừng hớn hở không thể tự kiềm, liền trải tóc dưới đất và nói lời này: Nếu Đức Phật không thọ ký cho tôi, thì ngay chỗ này tôi sẽ tự hủy hoại các căn.

Khi ấy Đức Phật Ðăng Quang biết ý nghĩ trong tâm Phạm Chí, liền bảo: Ông mau đứng lên. Ðời vị lai sau, sẽ được thành Phật Hiệu Thích Ca Văn Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác.

Phạm Chí nghe Phật thọ ký rồi, tâm rất vui mừng không thể tự kềm, lập tức ngay nơi ấy được biến hiện tam muội, bay lên hư không cách mặt đất bảy nhẫn, chắp tay hướng về Đức Phật Ðăng Quang.

Này Ưu Ba Ly! Thầy chớ lấy làm lạ. Thầy Tỳ Kheo Trưởng Lão vào thời Đức Phật Bảo Tạng, đâu phải người nào lạ, chính là Đức Phật Ðăng Quang. Còn Công Chúa Mâu Ni lúc ấy, chính là ta hiện nay.

Lúc ấy Đức Phật Đăng Quang đặt danh hiệu ta là Thích Ca Văn. Nay ta do nhân duyên ấy, nên nói pháp bát quan trai này, nên phát thệ nguyện, không thệ nguyện không kết quả.

Vì sao?

Nếu lúc ấy, Công Chúa phát nguyện như thế, liền ngay nơi kiếp ấy thành tựu sở nguyện, rốt cuộc không thành Phật Đạo.

Phước thệ nguyện không thể xưng kể, được đến chỗ cam lồ, chỗ diệt tận. Như thế, Ưu Ba Ly, nên học như thế. Bấy giờ, Tôn Giả Ưu Ba Ly nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường