Phật Thuyết Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ đà La Ni - Phẩm Ba - Phẩm đại Bi Thai Tạng Xuất Sinh - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
THỦ HỘ QUỐC GIỚI CHỦ ĐÀ LA NI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bát Nhã, Đời Đường
PHẨM BA
PHẨM ĐẠI BI THAI TẠNG XUẤT SINH
TẬP MỘT
Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, lễ Đức Phật rồi chắp tay cung kích bạch Phật rằng:
Thế Tốn Như Đức Phật đã nói: tâm Citta với Hư Không Ākāśa, Đà La Ni Dhāraṇī.
Bồ Đề Bodhi không có hai, không có khác… đều dùng đại bi Mahākāruṇa làm gốc rễ Mūla: Căn.
Nhưng đại bi này lại dùng pháp nào để làm gốc rễ?
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử thẳng thắn phát ra câu hỏi này vì muốn lợi lạc cho nhiều chúng sinh.
Hãy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ! ta sẽ vì ông phân biệt giải nói.
Này Thiện Nam Tử! Gốc rễ đại bi này lại dùng chúng sinh thọ nhận khổ đau làm gốc rễ.
Văn Thù Sư Lợi lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Chúng sinh thọ nhận khổ đau lại dùng pháp nào để làm gốc rễ?
Đức Phật nói: Từ phiền não Kleśa sinh ra.
Lại hỏi: Phiền não dùng cái gì làm gốc rễ?
Đức Phật nói: Từ mọi loại tà kiến Mithyā dṛṣṭi điên đảo mà sinh ra.
Lại hỏi: Mọi loại tà kiến điên đảo dùng cái gì làm gốc rễ?
Đức Phật nói: Từ hư vọng phân biệt Vitatha vikalpa sinh ra.
Lại hỏi: Hư vọng phân biệt dùng cái gì làm gốc rễ?
Đức Phật nói: Vọng phân biệt này không có gốc rễ, không có sắc tướng, khó biết, khó chặt đứt.
Này Thiện Nam Tử! Do nghĩa này cho nên Bồ Tát Ma Ha Tát vì các chúng sinh khởi tâm đại bi, nhọc nhằn, khiêm nhường, quên mệt mỏi… ví như cây mía cùng với mè, dùng vật đè ép thì dầu, tương liền hiện.
Bồ Tát cũng thế, đại bi sâu nặng lại khởi mười sáu tâm đại bi, tác niệm rằng: Thương thay! Chúng sinh thường bị thân kiến satkaya dṛṣṭi cột buộc, dùng mọi loại tà kiến Mithyā dṛṣṭi làm hang, nhà… ta sẽ vì kẻ ấy, diễn nói diệu pháp đều khiến cho trừ đứt.
Thương thay! Chúng sinh đối với đoạn uccheda, thường nitya chấp dính dựng lập.
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế nào gọi là đoạn kiến uccheda dṛṣṭi, thường kiến Nitya dṛṣṭi hay Śāsvata dṛṣṭi?
Đức Phật bảo: Này Thiện nam tử! Nói đoạn kiến là: Bố thí, cúng dường đều không có quả báo. Làm thiện, làm ác thì đời này đời sau đều không có quả. Cha mẹ biến hóa thảy đều chặt đứt, không có.
Tại sao thế?
Ví như biết thiêu đốt củi xong thì thành tro, cuối cùng không có lý sinh ra. Đây gọi là đoạn kiến.
Nói Thường Kiến là: Nhà Vua thường đem sự quý hiển của Vua thường làm sự quý trọng.
Nhóm loại: Nam nữ nghèo, giàu, đoan chánh, xấu xí, voi, ngựa thường không có biến đổi.
Tại sao thế?
Ví như hạt giống tùy theo bản loại của nó đều sinh ra mầm khác nhau, cuối cùng không có tạp loạn.
Này Thiện nam tử! Nhóm chúng sinh này tạo làm chỗ thấy biết Dṛṣṭi: Kiến như vậy đều không có quả báo. Bồ Tát vì kẻ ấy khởi tâm đại bi Mahā kāruna citta mở bày diễn nói môn duyên khởi pratītya samutpāda khiến cho kẻ ấy tin vào nhân duyên hetu pratyaya, quả báo vipāka.
Bồ Tát lại niệm: Thương thay! Chúng sinh dấy lên bốn thứ điên đảo: Không có thường lại tính là thường, không có vui lại tính là vui, không có cái ta ngã lại tính là cái ta, không có trong sạch lại tính là trong sạch. Ta sẽ vì kẻ ấy nói pháp thâm sâu khiến trừ điên đảo.
Thương thay! Chúng sinh ở trong vô ngã không có cái ta, vô ngã sở không có cái của ta lại tính là ngã Ātman: Cái ta.
Ngã Sở Mama kāra: Cái của ta. Ta sẽ vì kẻ ấy nói pháp vi diệu khiến cho kẻ ấy trừ dứt chỗ thấy biết về ngã, ngã sở.
Thương thay! Chúng sinh bị các cái chướng āvaraṇa: Một tên gọi của phiền não che lấp. Tâm trong mũi tên tham, lửa giận dữ cháy mạnh đều thiêu đốt thân tâm.
Say mê hôn trầm, nằm ngủ… trạo cử Auddhatya: Tác dụng của tinh thần phù động chẳng yên làm ác ràng buộc chẳng buông bỏ, đối với pháp thâm sâu thường ôm giữ sự nghi hoặc. Ta sẽ vì kẻ ấy nói pháp vi diệu khiến cho kẻ ấy hủy hoại các lưới che trùm.
Thương thay! Chúng sinh vướng dính sáu xứ. Con mắt vừa nhìn thấy hình sắc, tùy theo danh tướng của hình sắc mà sinh chấp dính. Lỗ tai nghe âm thanh, lỗ mũi ngửi mùi thơm, hôi. Cái lưỡi nếm nhiều mùi vị. Cái thân tiếp chạm sự trơn mềm nhỏ nhiệm. Ý phân biệt pháp… đều tùy theo danh tướng mà sinh chấp dính.
Ta sẽ vì kẻ ấy nói pháp sâu xa màu nhiệm khiến cho chẳng ưa dính nhóm trống rỗng của sáu xứ thương thay!
Chúng sinh phần nhiều khởi các mạn là: Mạn Māna, quá mạn Ati māna với mạn quá mạn mānāti māna, ngã mạn ātma māna, tăng thượng mạn adhi māna, ty mạn ūna māna, tà mạn mithyā māna.
Thế nào là Mạn Māna?
Ấy là đối với chúng sinh thấp kém, thì tính là ta hơn kẻ kia.
Nói quá mạn Ati māna là đối với người ngang bằng với mình thì nói là ta hơn hẳn kẻ kia mạn quá mạn Mānāti māna là đối với người khác hơn hẳn ta, lại tính là ta hơn kẻ ấy.
Nói ngã mạn Ātma māna là đối với hình sắc lại tính là ta, cho đến đối với Thức Vijñāna: Sự nhận thức cũng tính là ở ta, khiến cho tâm ngẩng cao lên cao cử.
Nói Tăng Thượng Mạn Adhi māna là: Chưa từng đắc được Thánh pháp tăng thượng mà lại hướng về người khác nói rằng ta được Thánh pháp.
Nói Ty Mạn Ūna māna là: Đối với người hơn hẳn mình nhiều phần thì nói rằng ta yếu kém.
Nói Tà Mạn Mithyā māna là ở trong tà kiến không có đức của mình, lại nói rằng mình là chánh đúng, trở ngược lại bảo người khác là tà.
Nhóm mạn như vậy, ta sẽ vì kẻ ấy nói pháp thâm sâu khiến cho kẻ ấy trừ dứt, trụ ở bình đẳng.
Thương thay! Chúng sinh hướng theo đường tà là lìa đường Thánh. Ta sẽ vì kẻ ấy nói pháp của con đường chánh đúng khiến cho xa lìa lối tà.
Thương thay! Chúng sinh làm nô dịch cho sự ân ái, nhận chịu sự sai khiến của nó. Thê thiếp, nam nữ dùng làm xiềng xích, gông cùm cột trói, nhiễm dính, ham đắm mùi vị… chẳng thể xa lìa khiến cho thân miệng ý chẳng được tự tại. Ta sẽ vì kẻ ấy nói pháp lìa tham khiến cho ba nghiệp của kẻ ấy động, dừng không có sự ràng giữ.
Thương thay! Chúng sinh luân phiên tranh đấu với nhau, giận dữ kết hận trợ nhau làm oán thù. Ta sẽ vì họ nói pháp khiến cho trừ dứt.
Thương thay! Chúng sinh xa thiện tri thức Kalyāṇa mitra tùy chạy theo bạn ác chẳng xa lìa nhau, như ngón tay với móng tay hòa hợp cùng dựa vào nhau, làm các nghiệp ác không có tạm ngưng nghỉ. Ta sẽ vì họ nói pháp khiến cho buông bỏ bạn ác, gần gũi thiện tri thức.
Thương thay! Chúng sinh tham cầu danh lợi không có chán ghét như biển nuốt dòng sông được sự đầy tràn, như lửa được chất thêm củi, xa lìa trí tuệ thật tướng không dơ bẩn. Ta sẽ vì kẻ ấy nói pháp chân thật khiết chặt đứt danh lợi, được trí thanh tịnh.
Thương thay! Chúng sinh vô minh đen tối, trong pháp vô ngã ngang ngạnh dấy lên ngã kiến, chúng sinh, thọ mệnh, Bổ Đặc Già La Pudgala. Ta sẽ vì họ nói pháp đoạn trừ mọi loại tà kiến như vậy khiến loại bỏ màng che mờ mắt, mở con mắt trí trong sạch.
Thương thay! Chúng sinh bị ngục tù sinh tử, luân hồi cấm buộc, bị oán tặc năm uẩn giết hại. Ta sẽ vì họ nói pháp khiến cho ra khỏi ba cõi.
Thương thay! Chúng sinh bị sợi dây ba cột trói, năm dục ràng buộc chẳng được thoát lìa. Ta sẽ vì họ nói pháp vượt qua ma khiến dứt hẳn sợi dây ma, chặt đứt sự ràng buộc của năm dục.
Thương thay! Chúng sinh đóng cửa Niết Bàn, mở đường sinh tử. Ta sẽ vì họ nói pháp khiến đóng ba ác vào cửa Niết Bàn.
Thiện Nam Tử! Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát khởi mười sáu loại tâm đại bi.
Khi ấy, Đức Thế Tôn lại bảo Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử rằng: Thiện nam tử! Đại bi môn này tức là mẹ của tất cả Bồ Tát. Bồ Tát trụ trong đại bi này liền hay dựng lập ba mươi hai loại sự nghiệp chẳng chung cùng bất cộng sự nghiệp, ngày đêm siêng tu, mau được viên mãn.
Thế nào gọi là ba mươi hai loại sự nghiệp chẳng chung cùng?
Ấy là: Bồ Tát nếu thấy tất cả chúng sinh ngu si, ngủ say trong đêm dài tối tăm nặng nề, không có trí thi liền dùng trí tuệ, trước tiên tự mình hiểu biết rõ ràng, lại dùng trí tuệ giác ngộ tất cả chúng sinh ngu si. Đây gọi là sự nghiệp chẳng chung cùng thứ nhất của Bồ Tát.
Nếu thấy chúng sinh yêu thích nhị thừa, tâm hạn hẹp kém cỏi. Bồ Tát liền khởi tâm rộng lớn khiến cho kẻ ấy an trụ trong pháp đại thừa. Đây gọi là sự nghiệp chẳng chung cùng thứ hai của Bồ Tát.
Nếu thấy chúng sinh yêu thích phi pháp Adharma, buông thả ba nghiệp, không có thiện pháp kuśala dharma, tham muốn. Bồ Tát tự trụ tại vườn chánh pháp, lại khiến cho chúng sinh trụ trong chánh pháp. Đây gọi là sự nghiệp chẳng chung cùng thứ ba của Bồ Tát.
Nếu thấy chúng sinh tà mệnh mitya jīva, tự sống giả trá lừa dối, tham cầu. Trước tiên đem thân của mình trụ ở chánh mệnh samyag ājīva. Lại khiến cho chúng sinh an trụ trong pháp chánh mệnh trong sạch. Đây gọi là sự nghiệp chẳng chung cùng thứ tư của Bồ Tát.
Nếu thấy chúng sinh xoay hướng không có nhân quả với tất cả pháp, khởi đại tà kiến thì tự mình trụ chánh kiến Samyag dṛṣṭi lại khiến cho chúng sinh an trụ trong pháp chánh kiến không có dơ bẩn. Đây gọi là sự nghiệp chẳng chung cùng thứ năm của Bồ Tát.
Nếu thấy chúng sinh không có hiểu biết vô tri, nghĩ ác, gom chứa phiền não thì tự mình dùng con mắt trí an tâm chánh niệm Samyak smṛti. Lại khiến cho chúng sinh trụ ở chánh niệm, phá tăm tối vô tri, mở ánh sáng trí tuệ. Đây gọi là sự nghiệp chẳng chung cùng thứ sáu của Bồ Tát.
Nếu thấy chúng sinh vứt bỏ pháp chánh đúng chánh pháp trụ pháp chẳng chánh đúng bất chánh pháp. Trước tiên tự mình an trụ trong chánh pháp Saddharma, lại khiến cho chúng sinh hiểu thấu chánh pháp. Đây gọi là sự nghiệp chẳng chung cùng thứ bảy của Bồ Tát.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Nhuy Tứ Gia - Phẩm Mười - Phẩm Phân Biệt Hộ Ma
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Tám Mươi - Phẩm đạo Sĩ - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn - Phẩm Tám - Phẩm Luận Tịch
Phật Thuyết Kinh Dần đủ Tất Cả Trí đức - Phẩm Mười - Trụ Pháp Vũ - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Tâm Phật - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Chín - Phẩm Sa Môn - Phần Mười - Pankadhà
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Bảy - Phẩm Trì Giới Ba La Mật đa - Tập Ba