Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm Chín - Chuyện ðại Vương Vessantara Tiền Thân Vessantara - Phần Năm - Cuộc Hành Trình Lên Núi Vamka
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
PHẨM CHÍN
CHUYỆN ÐẠI VƯƠNG VESSANTARA
TIỀN THÂN VESSANTARA
PHẦN NĂM
CUỘC HÀNH TRÌNH LÊN NÚI VAMKA
Khi nói các lời này với quần chúng, bậc Ðại Sĩ khuyên nhủ họ tinh cần bố thí, và làm các thiện sự.
Khi Ngài đi xa, mẹ Bồ Tát nói: Nếu Vương Tử muốn bố thí, hãy để chàng bố thí. Rồi bà gửi cho Ngài hai xe nhỏ đi kèm mỗi bên xe ngựa, chứa đầy nữ trang gồm bảy báu vật. Trong mười tám lần ban phát, Ngài phân chia cho đám hành khất mà Ngài gặp trên đường đi tất cả những gì Ngài có, gồm cả số đồ vật trang sức trên chính thân Ngài.
Khi Ngài đã rời Kinh Thành, Ngài quay lại và muốn nhìn lui, vì thế thuận theo ý Ngài, mặt đất nứt ra theo chiều chiếc xe và quay lại khiến cho xe đối diện Kinh Thành, Ngài liền chiêm ngưỡng nơi song thân Ngài cư ngụ. Tiếp theo đó là đất chấn động và nhiều việc kỳ diệu khác.
Vì vậy có chuyện kể:
Khi Ngài đi ra khỏi Kinh Thành ấy,
Ngài đã quay đầu nhìn xem trở lại,
Vì thế núi Tu Di lớn chuyển rung
Chẳng khác một cây đa giữa Cõi không.
Trong lúc ngắm cảnh, Ngài ngâm kệ thúc giục Maddì cũng nhìn lui:
Này Mad dì, nhìn nơi thân yêu đó,
Nơi chúng ta vừa cất bước ra đi,
Ấy Vương Cung của Chúa Tể Sivi,
Và cũng chính nơi quê cha đất tổ.
Sau đó, Ngài nhìn về phía sáu mươi ngàn triều thần, những người sinh ra cùng thời với Ngài, nhìn đám quần chúng còn đó, và ra hiệu cho họ lui về, rồi trong khi tiếp tục lái xe đi, Ngài bảo Maddì: Này công nương, nàng hãy nhìn xem thử có kẻ cầu xin nào đang đi phía sau chăng. Nàng liền nhìn ra. Bấy giờ bốn Bà La Môn không thể có mặt kịp trong Lễ bố thí bảy trăm báu vật đã đến Kinh Thành, và thấy lễ phân phát đã xong, biết chắc là Vương Tử đã ra đi.
Thế Ngài có đem theo vật gì không?
Vâng, có cỗ xe. Vì thế họ quyết định đi xin bầy ngựa. Maddì thấy những người này đang tiến lại gần.
Tâu chúa công, có các vị hành khất Nàng nói.
Bậc Ðại Sĩ dừng xe lại. Họ tiến đến xin bầy ngựa và bậc Ðại Sĩ cho ngựa.
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:
Khi bốn Bà La Môn bắt kịp Ngài,
Và muốn xin bầy ngựa, họ kêu nài,
Ngài ban bầy ngựa kia ngay tại chỗ,
Mỗi hành khất được một con tuấn mã.
Bầy ngựa được lấy đi rồi, dây cương của cỗ xe vẫn còn treo lơ lửng trên không. Nhưng chẳng bao lâu sau khi các Bà La Môn vừa đi, thì bốn vị thần giả dạng bầy hươu đỏ tía đến kéo xe đi.
Bậc Ðại Sĩ biết chúng là Thần linh liền ngâm kệ này:
Này Maddì, hãy ngắm việc diệu kỳ,
Này nhìn xem việc hy hữu, Mad dì:
Những con ngựa này đây thông minh quá,
Ðội lốt hồng dương kéo xe ta đó!
Nhưng khi Ngài tiến lên thì một Bà La Môn khác đến xin cỗ xe. Bậc Ðại Sĩ đưa vợ con xuống và cho ông cỗ xe. Khi Ngài cho xe xong, các vị thần cũng biến mất.
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc tặng cỗ xe này:
Một kẻ thứ năm tiến đến tức thì
Và cầu xin xe nọ của Vương Nhi.
Việc này khiến Vessanta Chúa Thượng
Phải đưa đám vợ con Ngài đi xuống,
Và ban xe cho kẻ đến xin quà.
Sau đó cả đoàn đều đi bộ.
Bậc Ðại Sĩ bảo Maddì:
Này Maddì, nàng hãy bế Kanhà
Vì nó nhẹ và hãy còn thơ dại,
Còn Jàli là bé trai nặng đấy,
Ta sẽ mang con trẻ ấy theo cùng.
Sau đó hai vị bế con lên và mang chúng bên hông.
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:
Ngài, con trai, nàng, con gái lên đường
Cùng trò chuyện thật hân hoan mãn nguyện.
Ðến đây chấm dứt chuyện Bố Thí Dàna khandam
Khi gặp kẻ nào trên đường, hai vị hỏi đường đi đến đồi Vamka vạn cổ và được biết còn xa lắc.
Vì thế, có chuyện kể:
Bất cứ khi nào gặp du khách đến,
Hai vị hỏi thăm phương hướng đi đường,
Và nơi đâu là vạn cổ cao sơn.
Ðám du hành đều khóc than thương xót,
Nhìn các Ngài trên con đường rảo bước,
Và bảo Ngài nhiệm vụ quá nặng nề:
Con đường còn xa lắc ở đằng kia.
Ðôi trẻ reo lên khi thấy đủ loại trái cây mọc hai bên đường. Nhờ Thần lực của bậc Ðại Sĩ, cây cối rạp mình xuống đưa trái đến tầm tay họ hái được và hai vị hái những quả chín nhất đưa cho các con.
Lúc ấy Maddì reo lên: Thật kỳ diệu quá!
Vì thế chuyện kể lại:
Khi trẻ thơ ngắm nhìn trên sườn núi
Nhiều cây cao mọc lên đầy hoa trái,
Hai trẻ kia liền kêu khóc đòi ăn.
Khi cây rừng nhìn lũ trẻ khóc than,
Cây cao vút bỗng sinh lòng ái ngại
Cúi rạp mình đưa các cành đi tới
Cho tay người hái được trái cây rừng.
Lúc ấy Mad dì reo lớn vui mừng,
Nàng công chúa diễm kiều và rực rỡ,
Khi nhìn thấy phép thần kỳ diệu đó
Khiến cho người ta phải dựng tóc lông.
Tóc lông người dựng đứng lúc nhìn trông
Nhờ thần lực Vessanta Chúa Thượng
Các cây cao bỗng nghiêng mình cúi xuống.
Kể từ Kinh Thành Jetuttara, núi Suvannagiritàla cách đó năm dặm, sông Kontimàrà lại cách đó năm dặm, và núi Arañjaragiri lại cách đó năm dặm nữa, ngôi làng Bà La Môn Dunnivittha lại cách đó năm dặm nữa, và Kinh Thành của quốc cửu Ngài cách đó mười dặm, như vậy kể từ Jetuttara, hành trình dài ba mươi dặm. Các vị thần rút ngắn khoảng đường ấy, vì vậy chỉ trong một ngày, họ đã đến thành của vị Quốc Cửu.
Do đó, chuyện kể:
Thần Dạ Xoa thâu ngắn dặm trường
Vì thương con trẻ gặp tai ương,
Ce ta Quốc Độ nay vừa đến
Trước buổi hoàng hôn kịp bước đường.
Bấy giờ các vị rời thành Jetuttara lúc rạng đông, và buổi chiều đã đến Vương Quốc Ceta và vào thành của Quốc cửu.
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:
Cả đoàn đi đến xứ Ceta
Gian khổ lộ trình quả thật xa,
Vương Quốc tràn trề đồ ẩm thực,
Phú cường, thịnh vượng cõi Sơn Hà.
Bấy giờ trong Kinh Thành của vị Quốc cửu ấy có sáu mươi ngàn võ tướng Sát Đế Lỵ cư trú. Bậc Ðại Sĩ không vào thành, mà chỉ ngồi ở sảnh đường ở cổng thành.
Maddì phủi bụi trên chân bậc Ðại Sĩ và xoa bóp chân Ngài, rồi với ý định thông báo việc Ngài đến, nàng đi ra khỏi sảnh đường và đứng lại để người ta nhìn thấy. Vì thế những phụ nữ vào ra Kinh Thành trông thấy nàng và đến vây quanh.
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:
Nhìn thấy Vương Phi dáng tốt lành
Ðàn bà xúm lại đứng vây quanh:
Bà phu nhân ấy trông hiền dịu
Sao phải đi chân suốt lộ trình?
Ngày xưa trên võng kiệu, Vương xa,
Bà mệnh phụ kia được rước ra,
Nay lúc Maddì đành rảo bước,
Nơi nàng cư trú: chốn rừng già.
Quần chúng lúc ấy vừa thấy Maddì và Vessantara cùng các con đến nơi không có lễ nghi đón chào gì cả, liền trình Vua. Rồi sáu mươi ngàn võ tướng quý tộc đến gặp Ngài và than khóc.
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:
Vương Tộc Ceta đến yết kiến Ngài
Tất cả đều khóc lóc, thở than hoài:
Chúng thần kính chào Ngài, tâu Chúa Thượng,
Chúng thần tin Ngài an khang, thịnh vượng.
Còn giang sơn cùng với đại Phụ Vương
Mong Ngài đem mọi tin tức cát tường.
Quân sĩ của Ngài đâu, tâu Chúa Tể,
Và ở đâu chiếc Vương xa oai vệ?
Không ngựa xe, Ngài cất bước hành trình,
Có phải chăng Ngài đi đến một mình
Vì đã bị đám quân thù đánh bại?
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói cho các Vương Tử biết nguyên nhân Ngài đến đây:
Xin cám ơn các Ngài đầy ưu ái,
Hãy bình tâm: ta thịnh vượng, khang an,
Về Phụ Vương và Quốc Độ giang sơn
Ta có đủ tin lành đem thông cáo.
Ta đã tặng con voi là Quốc Bảo
Có ngà dài, toàn trắng, thật tốt lành,
Ðã bao lần thắng trận lúc giao tranh.
Với quạt đuôi trâu rừng và ngọc thạch,
Ðã dẫm tan bao đám quân thù địch.
Thật hung hăng, dài thẳng tắp đôi ngà,
Trắng ngần như núi tuyết Kelàsa.
Lọng trắng, cân đai xứng ngôi Chúa Thượng,
Với đám quân hầu cùng người quản tượng,
Bảo vật này ta đã lấy phát phân.
Vì thế toàn dân ta đã hận sân,
Và Vương phụ xem đây là lầm lỗi.
Do việc kia, ta bị Ngài xua đuổi,
Bây giờ ta đi đến vạn cổ Sơn,
Xin các Ngài cho biết chỗ náu nương.
Các Vương Tử đáp:
Xin đừng nghi ngờ, cung nghênh Chúa Thượng,
Xin ngự trị đây, tùy nghi thọ hưởng,
Dùng mật ong, cỏ thuốc, thịt, gạo ngon
Chọn món nào trắng nhất, loại cao lương,
Tùy Thánh ý, Ngài sẽ là khách quý.
Vua Vessantara nói:
Ðây ta nhận quà trao từ các vị,
Xin cảm ơn về thiện chí tràn đầy,
Nhưng Phụ Vương đã tống xuất giờ đây
Ta đi đến vùng núi đồi Vạn cổ,
Xin các Ngài chỉ ta nơi cư trú.
Các Vương Tử đáp:
Xin Ðại Vương ở lại xứ Ceta
Cho đến khi dâng sớ tấu Đức Vua
Sivi Quốc điều chúng thần biết được!
Lúc ấy dân đi theo Ngài lũ lượt
Hộ tống Ngài, đầy tin tưởng hân hoan,
Ðiều này thần xin thông báo Ðại Vương.
Bậc Ðại Sĩ nói:
Ta không muốn nhờ các Ngài dâng sớ
Trình Phụ Vương nơi đây ta cư trú,
Trong việc này, Ngài không phải Vua đâu,
Ta e rằng Ngài không có quyền cao.
Triều thần và dân thị thành căm phẫn
Tụ họp nhau, mọi người đầy kích động
Bởi vì ta, chúng có thể hại Vua.
Các Vương Tử đáp:
Nếu trong xứ kia có thể xảy ra
Một sự việc đầy kinh hoàng như thế,
Ngài được dân xứ Ceta hộ vệ,
Xin ở đây và làm bậc Ðại Vương.
Ðất nước này đang thịnh vượng, phú cường
Với dân chúng thật hào hùng, vĩ đại,
Cầu xin Ngài hãy quyết tâm ở lại
Với chúng thần và cai trị Quốc Gia.
Hãy nghe ta! Các Vương Tử Ceta
Ta không có ý mong cầu ở lại,
Vì ta đi như một người bị đuổi,
Chẳng đến đây cầm quyền lực Quân Vương,
Dân Sivi tất cả sẽ bất bằng
Biết các Ngài tôn ta làm Thiên Tử,
Trong khi ta bị đày ra khỏi xứ.
Nếu các Ngài muốn thực hiện điều này,
Sẽ là điều thật bất hạnh từ đây:
Gây tranh chấp với Sivi dân chúng,
Ta không thích đấu tranh và căm hận.
Ðây ta nhận quà do các vị trao
Xin cám ơn thiện chí biết dường nào,
Nhưng từ nay Vua đuổi ta khỏi xứ,
Ta ra đi đến vùng đồi vạn cổ,
Xin các Ngài hãy nói rõ cho ta,
Một nơi đâu có thể gọi là nhà.
Như vậy dù có nhiều lời thỉnh cầu, bậc Ðại Sĩ vẫn chối từ Vương Quốc. Sau đó các Vương Tử ấy tiếp đón Ngài trọng thể. Nhưng Ngài không muốn đi vào thành, vì thế họ trang hoàng sảnh đường mà Ngài đang ở, giăng màn quanh đó và soạn một chiếc tọa sàng lớn, rồi họ canh phòng cẩn mật chung quanh.
Ngài cư trú trong sảnh đường ấy một đêm một ngày, được canh phòng cẩn mật. Ðến hôm sau, vào lúc tảng sáng, sau một bữa cơm đầy cao lương thượng vị, được các Vương Tử hộ tống, Ngài rời sảnh đường.
Sáu mươi ngàn võ tướng Sát Đế Lỵ ấy đưa tiễn Ngài suốt mười lăm dặm đường, rồi dừng lại ở lối vào khu rừng, họ nói về mười lăm dặm đường còn lại của cuộc hành trình:
Vâng, chúng thần xin trình tâu Chúa Tể
Làm cách nào một vị Vua xuất thế
Nhờ lửa thiêng được an tịnh, tốt lành,
Mọi sự đều trôi êm ả, thanh bình.
Gan dha mà, tâu Ðại Vương, núi đá
Là nơi Ngài cùng vợ con cư trú.
Dân Ce ta với vẻ mặt thảm sầu
Tất cả đều tuôn chảy những dòng châu,
Khuyên Ðại Vương đi thẳng đường phương Bắc,
Nơi các đỉnh núi non cao chất ngất.
Nơi kia Ngài thấy núi Vipula,
Cầu phúc lành đi sát cạnh Vương gia,
Ðầy lạc thú với nhiều cây xanh ngắt
Ðang đổ xuống dưới kia bao bóng mát.
Khi đến nơi, Ngài sẽ thấy bên mình
Cầu chúc Ngài lần nữa được phúc lành
Ketuma, dòng nước sâu thăm thẳm
Tuôn chảy ra từ ngọn đồi vô tận.
Ðầy cá, tôm, nơi trú ngụ bình an,
Dòng nước sâu kia tuôn chảy tràn lan,
Ngài sẽ uống, tắm, chơi cùng con cái.
Và nơi kia, trên ngọn đồi khả ái,
Bóng mát che, Ngài sẽ thấy trĩu đầy
Trái cây thơm như mật ngọt ngào thay,
Thật hùng vĩ một cây đa đại thọ.
Ngài sẽ thấy núi Nalika nọ
Và đó là vùng đất của Quỷ Thần,
Nơi bầy chim cất tiếng hót hòa âm,
Nhiều ma quái, lắm sơn Thần ẩn nấp.
Từ đó đi xa hơn về phía Bắc
Là đến hồ tên gọi Mucalinh
Bao phủ đầy loài sen súng trắng xanh.
Kế đó cánh rừng dày như mây phủ,
Bước chân lên giống như trên thảm cỏ,
Cây đầy hoa và trái nặng trĩu cành
Ở trên đầu che bóng mát tàng xanh,
Hãy vào đó: sự rình mồi mong ngóng
Bắt con thịt và ăn tươi nuốt sống.
Nơi kia khi rừng nở rộ ngàn hoa,
Nghe rạt rào muôn vạn tiếng chim ca,
Tiếng líu lo ở khắp nơi đây đó
Của bao cánh chim rừng màu rực rỡ.
Nếu Ngài đi theo ngọn thác dần dần
Cho đến khi lên tận chốn suối nguồn,
Ngài sẽ thấy một hồ hoa sen phủ
Với các loài hoa chen nhau đua nở.
Ðầy cá tôm, nơi trú ngụ an thân
Dòng nước kia sâu thăm thẳm vô cùng
Bền vững, thanh bình, tỏa mùi thơm dịu,
Chẳng hơi nồng nặc làm ta khó chịu,
Nơi kia Ngài xây dựng một thảo đường
Hơi nghiêng về một chút hướng Bắc phương,
Và từ Am Tranh Ngài sắp xây cất,
Ngài hãy bước lên đường tìm lương thực.
Như vậy các Vương Tử báo cho Ngài biết về cuộc hành trình dài mười lăm dặm ấy và tiễn Ngài ra đi. Nhưng để đề phòng mọi hiểm nguy đối với Vua Vessantara và dự trù không để bất cứ địch thủ nào có thể lợi dụng tấn công, họ ra lệnh cho một người trong xứ, khôn ngoan và khéo léo, theo dõi bước đi của Ngài cho đến tận lối vào rừng, rồi họ trở về Kinh Thành của mình.
Còn Vua Vessantara cùng vợ con tiến lên đỉnh Gandhamàdana Hương Sơn, ở lại đó ngày hôm ấy, sau đó hướng về Bắc đi qua chân núi Vipula, nghỉ chân tại bờ sông Ketumatì để dùng một bữa ăn ngon lành do người thợ rừng thết đãi, xong cả đoàn tắm rửa và uống nước rồi tặng người dẫn đường một cái trâm vàng.
Với tâm thanh thản, Ngài vượt qua dòng sông, nghỉ chân một lát dưới gốc đa mọc trên một khoảng đất bằng phẳng của núi này. Sau khi ăn trái đa xong, Ngài đứng lên và đi tiếp đến đồi Nàlika.
Vẫn tiếp tục tiến lên, Ngài đi dọc theo bờ hồ Mucalinda về phía Ðông bắc, từ đó nhờ con đường mòn hẹp Ngài đi sâu vào rừng rậm, và xuyên suốt rừng cây dọc theo dòng suối phát ra từ núi ấy cho đến khi Ngài gặp chiếc hồ vuông góc. Lúc bấy giờ, Thiên Chủ Sakka nhìn xuống cõi trần và xem xét những việc đã xảy ra.
Ngài suy nghĩ: Bậc Ðại Sĩ đã vào núi Himavat Tuyết Sơn, và chắc người phải có nơi cư trú.
Vì thế Ngài ra lệnh cho Vissakamma Thần xây dựng: Xin hiền hữu hãy đi vào vùng thung lũng núi Vam ka và xây ẩn am trên một địa điểm an lạc. Vissakamma ra đi làm hai Am Tranh với hai lối đi có mái che, có phòng ban đêm và phòng ban ngày. Dọc theo các lối đi, vị ấy trồng các hàng cây hoa và khóm chuối, cùng sắp đặt mọi vật dùng cần thiết cho các ẩn sĩ.
Rồi vị ấy ghi một câu: Các vật này dành cho ai muốn làm ẩn sĩ. Và xua đuổi các loài phi nhân ma quỷ cùng các loài chim thú có giọng kêu khó chịu đi nơi khác, vị ấy trở về cõi của mình.
Khi nhìn thấy con đường mòn, bậc Ðại Sĩ biết chắc chắn nó phải dẫn đến khu vực của các ẩn sĩ cư trú.
Ngài liền để Maddì và hai con ở trước cổng vào Am Tranh, và tự bước vào: Khi thấy câu ghi chú kia, Ngài nhận ra Sakka Thiên Chủ đang để mắt đến Ngài. Ngài mở cửa, bước vào, đặt cung kiếm xuống cùng xiêm áo mà Ngài đang mặc, Ngài khoác bộ áo tu hành của ẩn sĩ, cầm cây gậy đi ra mái hiên lui lui tới tới với vẻ thanh tịnh của một vị Ðộc Giác Phật và đến gần vợ con.
Maddì quỳ xuống chân Ngài, mắt đẫm lệ rồi cùng Ngài đi vào am, nàng đến am thất riêng của mình và khoác áo ẩn sĩ. Sau đó hai vị cùng bảo các con làm như vậy. Thế là cả bốn ẩn sĩ cao quý kia ở lại trong vùng thung lũng của đồi Vamka.
Bấy giờ Maddì thỉnh cầu bậc Ðại Sĩ: Tâu Chúa Thượng, xin chàng ở lại đây với các con, đừng ra ngoài hái quả dại, xin để thiếp đi thế. Từ đó, nàng thường tìm các thứ quả rừng về nuôi cả ba.
Bồ Tát cũng thỉnh cầu nàng: Này Maddì, bây giờ chúng ta là ẩn sĩ và nữ nhân là mối bất tịnh. Vậy từ nay về sau xin nàng đừng đến gần ta phi thời.
Nàng ưng thuận ngay. Nhờ uy lực lòng từ bi của bậc Ðại Sĩ, ngay cả thú rừng trong khoảng ba dặm đất này đều có lòng thương xót lẫn nhau. Hằng ngày vào lúc rạng đông, Maddì thức dậy, đem nước uống và thức ăn cùng nước rửa và đồ chải răng để súc miệng, quét sạch thảo am.
Rồi để hai con ở lại với cha chúng, nàng cầm thúng, xẻng và cào đi vào rừng kiếm củ quả dại, và chất đầy thúng. Buổi chiều nàng trở về đặt quả rừng vào am xong, liền tắm rửa các con và cả bốn người ngồi ở cửa am ăn trái cây. Sau đó Maddì đem hai con lui vào trong nội thất của nàng.
Theo cách này họ sống trong vùng thung lũng của núi rừng được bảy tháng. Ðến đây chấm dứt sự kiện đi vào rừng Vanappavesana khandam.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bất Tư Nghị Công đức Chư Phật Sở Hộ Niệm - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Bảo Vũ - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Kim Cang Thủ Bồ Tát Hàng Phục Nhất Thiết Bộ đa đại Giáo Vương - Phần Sáu
Phật Thuyết Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô Tướng - Phẩm Hai Mươi Hai - Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - NGHI THỨC KHAI KINH
Phật Thuyết Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ đà La Ni - Phẩm Hai - Tập Một