Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm Tám - Chuyện đường Hầm Vĩ đại - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
PHẨM TÁM
CHUYỆN ĐƯỜNG HẦM VĨ ĐẠI
PHẦN HAI
Chuyện kể rằng, một ngày nọ Ngài từ cung Dvàravatì vào ngự viên, trên đường Ngài gặp một kiều nữ đứng bên vệ đường, trong lúc nàng đi làm công chuyện từ làng Chiên Đà La của nàng đến thị trấn, Vua yêu nàng ngay rồi hỏi gốc gác nàng.
Khi nghe là một kẻ Chiên Đà La, Vua rất buồn phiền, song khi biết nàng chưa chồng, Ngài trở về cung ngay, mang theo nàng về cung và trang điểm nàng với đủ loại trân bảo rồi phong nàng làm Chánh Hậu. Nàng sinh hạ được một hoàng nam Sivi sau đó cai trị thần dân Dvàravatì khi Vua cha mất.
Sau khi nêu gương ấy xong, két lại tiếp tục: Như vậy, ngay một Vương Tử như Vua kia còn sánh duyên với một thiếu nữ Chiên Đà La, huống hồ chúng ta chỉ ở thế giới loài vật?
Nếu ta muốn sánh duyên với nhau thì chẳng có gì phải nói thêm nữa.
Và két đưa ra một gương khác như sau:
Rathava nọ, một tiên nga,
Cũng đã từng yêu quý Vaccha,
Người ấy đã yêu loài thú vật,
Trong tình yêu chẳng khác nhau mà.
Vaccha là một ẩn sĩ và cách chàng yêu nàng như sau: Ngày xưa, một Bà La Môn thấy rõ những tội lỗi của tham dục, nên từ bỏ cảnh phú quý xuất gia tu hành, sống trong vùng Tuyết Sơn dưới túp lều lá tự xây. Không xa lều này có một bầy tiên nửa người nửa thú sống trong hang đá, cùng nơi ấy lại có một con nhện.
Con nhện này thường giăng tơ đâm thủng đầu các tiên nữ này để hút máu. Lúc bấy giờ các tiên cô yếu đuối và nhút nhát, con nhện thì hung bạo độc ác, nên họ không làm gì chống lại nó được, liền đến gặp ẩn sĩ.
Đảnh lễ xong. Họ kể cho ông nghe câu chuyện con nhện đang tàn phá họ như thế nào và họ bơ vơ không ai giúp đỡ, nên họ xin ông giết con nhện để cứu họ.
Nhưng vị ẩn sĩ đuổi họ ra và la lên: Người như ta không sát sinh.
Một tiên nữ trong đám này tên là Rahavati chưa chồng và họ trang điểm cho nàng thật diễm lệ rồi đem đến ẩn sĩ bảo: Xin cho nàng này làm thị nữ của Ngài và xin Ngài giết kẻ thù của chúng tiện nữ.
Khi ẩn sĩ thấy nàng đem lòng yêu ngay và giữ nàng lại với mình, rồi nằm đợi con nhện ở miệng hang, khi nó bò ra kiếm mồi, liền lấy gậy giết nó, sau đó vị này sống với cô tiên, sinh con đẻ cái với nàng rồi qua đời, như vậy tiên nữ đã yêu vị này.
Con két kể gương này xong, liền bảo: Ẩn sĩ Vaccha, dù là người, vẫn sống với một Tiên Nữ thuộc nòi giống vật.
Thế thì sao ta lại không làm như vậy, khi ta đều là loài chim?
Nghe xong, nàng đáp lại: Thưa tôn ông, con tim không phải lúc nào cũng chung thủy, em rất sợ cảnh chia ly với bạn tình.
Nhưng két ta là con vật khôn ngoan hiểu rõ mọi trò quyến rũ của nữ giới, nên ngâm kệ này thử nàng thêm nữa:
Quả thật ta gần cất cánh xa,
Hỡi nàng thánh thót giọng Maynah,
Đây là lời chối từ ta đấy,
Chắc chắn nàng đang khinh bỉ ta.
Nghe vậy nàng thấy tim dường như muốn vỡ ra, nhưng trước mắt chàng, nàng làm như thể đang bừng cháy lên một tình yêu mới mẻ đối với chàng, liền ngâm một vần kệ rưỡi như sau:
Không phước lành cho kẻ vội vàng
Mà tha ra, két lục khôn ngoan,
Ở đây cho đến khi triều kiến,
Chúa Thượng và nghe tiếng dậy vang,
Của các trống chiêng khua đủ loại,
Và nhìn Đại Đế đẹp huy hoàng.
Thế rồi lúc hoàng hôn xuống, chúng vui chơi cùng nhau, hưởng trọn tình bằng hữu hân hoan thích thú.
Lúc ấy, két nghĩ thầm: Nay nàng không giấu bí mật với ta nữa, ta phải hỏi nàng rồi ra đi. Này nàng Maynah hỡi Chàng bảo.
Thưa chàng, có việc gì?
Ta muốn hỏi nàng một vài chuyện.
Có nên nói chăng?
Xin chàng cứ nói. Thôi được, không hề gì, hôm nay là ngày hội, để ngày kia sẽ xem lại sao. Nếu thuận tiện trong ngày hội xin chàng cứ nói, còn nếu không thì thôi đừng nói nữa, thưa chàng.
Đúng ra chuyện này thuận tiện trong ngày hội.
Vậy xin chàng nói đi. Nếu nàng muốn nghe, ta mới nói.
Rồi két hỏi chuyện bí mật trong một vần kệ rưỡi như sau:
Tiếng đồn này thật lớn truyền ra,
Khắp cả miền đất nước của ta:
Công chúa Pãn Cà La Đại Đế,
Như sao rực sáng, được Vua cha,
Đem gả Vi Đề Ha quý tộc,
Lễ thành hôn sắp đến đây mà!
Nghe vậy, nàng bảo: Này chàng ơi, trong ngày hội này mà chàng nói chuyện xui xẻo quá!
Ta cho đó là chuyện may mắn, sao nàng lại bảo xui xẻo, thế là nghĩa gì?
Thưa chàng em không nói được đâu.
Cô nương ơi, từ giờ phút nàng từ chối cho ta rõ bí mật mà nàng biết, thì mối lương duyên của đôi ta chắc phải đứt đoạn.
Nghe chàng nài nỉ, nàng liền đáp:
Vậy thì chàng hãy nghe đây:
Đừng để cho ai, dẫu kẻ thù,
Tác thành hôn lễ, Ma tha ra,
Giống như cách của hai Vua ấy,
Pãn Cà La và Vi Đế Ha.
Két hỏi: Cô nương ôi, tại sao nàng bảo như vậy?
Nàng đáp: Xin hãy nghe đây, em sẽ nói mọi tai hại của việc này.
Rồi nàng ngâm kệ:
Vua hùng của xứ Pañ Cà La,
Sẽ quyến rủ Vua Vi Đế Ha,
Và sẽ giết Vua kia lập tức,
Nàng đây chẳng phải bạn đâu mà.
Nàng kể mọi chuyện bí mật cho két khôn ngoan và con két khôn ngoan nghe vậy cứ khen ngợi Kevatta hết lời:
Vị Đại Sư thật là đa mưu túc kế, giết Vua kia như vậy thật là diệu kế.
Nhưng việc rủi ro nào sẽ xảy ra cho ta đây?
Vậy giữ yên lặng là thượng sách.
Thế là cuộc hành trình của két đã đạt kết quả.
Sau khi ở lại đó một đêm với nàng, két bảo: Cô nương ơi, ta phải về xứ Vua Sivi và tâu trình Vua là ta đã tìm được một ái thê.
Rồi két từ giã nàng qua câu kệ:
Nay xin từ giã bảy đêm trường,
Ta sẽ tâu trình với Đại Vương,
Của xứ Sivi, ta đã gặp,
May nah và lập tổ uyên ương.
Lúc bấy giờ chim Maynah, dù không muốn xa két cũng không thể nào từ chối được, liền ngâm kệ sau:
Em để chàng đi trong bảy đêm,
Sau nếu chàng không trở lại em,
Em sẽ tự mình tìm nắm mộ,
Chàng về em cũng sẽ quy tiên!
Két đáp lại: Cô nương ơi, sao nàng lại nói thế, nếu sau bảy ngày ta không gặp nàng, làm sao ta sống được?
Miệng nói thế, nhưng trong lòng két nghĩ thầm: Nàng sống hay chết, ta đâu có quan tâm đến làm gì?
Két vươn cao đôi cánh, sau khi bay một khoảng ngắn về phía xứ Sivi, nó quay lại về hướng thành Mithilà. Rồi đứng trên vai bậc Trí Giả, khi bậc Đại Sĩ đem nó lên thượng lầu và hỏi tin tức, nó kể với Ngài tất cả. Ngài ban thưởng nó trọng thể như trước kia.
Bậc Đạo Sư giải thích chuyện này như sau:
Rồi Mà tha, két khôn ngoan,
Trình Mahosad Trí nhân sự tình.
Nghe xong bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: Nhà Vua sẽ đi, dù ta muốn hay không cũng vậy và nếu Ngài đi, Ngài sẽ bị tiêu diệt ngay. Còn nếu ta cứ oán hận một vị Vua đã ban cho ta nhiều phú quý vinh hoa như vậy mà không giúp ích Ngài, thì thật đáng hổ thẹn.
Khi tìm được một người tài trí như ta, làm sao người bị tàn hại được?
Ta sẽ khởi hành trước Vua và sẽ gặp Vua Cùlani, ta sẽ sắp đặt mọi việc chu đáo. Ta sẽ xây một Kinh Thành cho Vua Vedeha ngự với một lối đi nhỏ hơn dài một dặm và một đường hầm lớn dài nửa dặm.
Ta sẽ làm lễ thụ phong công chúa của Vua Cùlani làm Vương hậu của Vua ta, rồi ngay khi Kinh Thành bị một trăm lẻ một Vương Hầu cùng đạo binh mười tám vạn quân sĩ bao vây, ta sẽ cứu chúa như thể mặt trăng được cứu khỏi móng vuốt của thần Ràhu La hầu rồi đưa Ngài về nước. Việc Ngài hồi cung chỉ ở trong tay ta.
Khi Ngài nghĩ như vậy, nỗi hân hoan tràn ngập khắp châu thân, rồi do niềm hân hoan thúc đẩy, Ngài thốt lên ước nguyện này: Con người luôn phải thực hành,
Vì quyền lợi của người mình thọ ân. Sau đó Ngài tắm rửa xoa dầu thơm xong, phục sức cực kỳ sang trọng đi vào cung, kính lễ Vua, rồi liền đứng sang một bên.
Tâu Chúa Thượng Ngài tâu Chúa Thượng sắp ngự xa giá đến Kinh Thành Uttarapãncàla chăng?
Phải đấy Vương nhi, nếu trẫm không chiếm được công chúa Pañcàlacandì, thì Vương Quốc này có nghĩa gì đối với trẫm?
Vương nhi đừng rời trẫm nữa, hãy cùng đi với trẫm.
Đến đó, trẫm sẽ được hai mối lợi lớn: Trẫm sẽ được đệ nhất nữ báu và kết thân với vị Vua kia.
Bậc Đại Trí liền đáp: Tâu Chúa Thượng, tiểu thần sẽ đi trước, xây cung điện cho Chúa Thượng ngự, Chúa Thượng sẽ đến khi tiểu thần tâu trình về.
Nói xong Ngài ngâm hai vần kệ:
Thần sẽ ra đi trước Đại Vương,
Đến Kinh Thành tráng lệ huy hoàng,
Pãn Cà La để xây cung điện,
Dâng chúa Vi Đề Ha vẻ vang.
Khi nào thần đã dựng xây xong
Dâng chúa Vi Đề mỹ lệ cung,
Thần sẽ tâu trình Ngài đến ngự,
Hỡi vị chúa tể đại anh hùng!
Vua nghe vậy rất đẹp lòng, vì thấy Ngài không bỏ mặc ông, nên bảo: Này Vương nhi, nếu con đi trước, con có cần gì chăng?
Tâu Đại Vương, tiểu thần cần một đạo binh. Vương nhi muốn cứ đem bao nhiêu tùy ý.
Bậc Trí Giả nói tiếp: Tâu Chúa Thượng, xin cho mở bốn ngục thất, phá xiềng xích các kẻ cướp bóc và cho họ cùng đi với tiểu thần.
Vương nhi cứ làm như ý muốn Vua bảo. Bậc Đại Sĩ cho mở các cửa ngục, đem ra những kẻ anh hùng, dũng mãnh, có thể làm phận sự khi được giao và bảo họ phụng sự Ngài.
Ngài trọng đãi các kẻ này và đem theo Ngài mười tám đoàn thợ hồ, thợ rèn, thợ mộc, thợ sơn, những người có tài thủ xảo, mỹ thuật trang bị đầy đủ lưỡi dao, xẻng cuốc và nhiều dụng cụ khác. Với đoàn tùy tùng rầm rộ như vậy, Ngài từ giã Kinh Thành.
Bậc Đạo Sư diễn tả việc này qua vần kệ sau:
Bậc Đại Trí liền cất buớc ra,
Đến thành hoa lệ Pañcàla,
Để xây dựng thật nhiều cung điện,
Dâng chúa vinh quang Vi Đế Ha.
Trên đường đi, bậc Đại Sĩ xây làng ở mỗi dặm đường, giao cho một viên quan ở lại đảm trách mỗi ngôi làng, với lời căn dặn: Để dự phòng việc Vua hồi cung cùng công chúa Pañcàlacandì, các ông phải chuẩn bị voi ngựa, chiến xa để đánh đuổi quân thù, rồi tức tốc đưa Đức Vua về thành Mithilà.
Khi đến bờ Sông Hằng, Ngài gọi Ànandakumara đến và bảo: Này Ànanda, hãy đem ba trăm thợ mộc đến thương lưu sông Hằng, tìm loại gỗ thật tốt, đóng ba trăm chiếc thuyền, bảo họ chặt thật nhiều gỗ tích trữ cho Kinh Thành, chở gỗ nhẹ cho đầy thuyền và mang về đây.
Ngài cũng đích thân đi thuyền vượt qua Sông Hằng và từ chỗ Ngài cập bến, Ngài tính khoảng cách và nghĩ thầm: Khoảng cách này chừng nửa dặm, phải có một đường hầm lớn, chỗ này phải xây thành cho Vua ngự, từ chỗ này về cung, xa chừng một dặm phải có lối đi nhỏ. Ngài đánh dấu chỗ đó xong rồi vào thành.
Khi Vua Cùlani nghe tin Bồ Tát đến, ông rất hài lòng, vì ông nghĩ: Bây giờ tâm nguyện của ta đã thỏa mãn, gã ấy đã đến, chẳng bao lâu Vua Vedeha cũng đến, thế là ta giết trọn cả hai và biến toàn cõi Diêm Phù Đề thành một Quốc Độ.
Cả Kinh Thành sôi động lên.
Họ đồn đại: Đấy là bậc Trí Giả Mahosadha, người đã đánh đuổi một trăm lẻ một Vương Tử như thể con quạ bị ném hòn đá cho hoảng sợ.
Bậc Đại Sĩ tiến vào cổng thành trong lúc dân chúng chiêm ngưỡng dung mạo tuyệt đẹp của Ngài, rồi Ngài xuống xe, nhờ người trình Vua.
Vua bảo: Đưa vị ấy vào. Và Ngài vào cung, triều bái Vua rồi Ngài ngồi xuống một bên.
Vua nhã nhặn nói chuyện với Ngài, rồi hỏi: Này Vương Tử, khi nào Đại Vương đến?
Tâu Chúa Thượng, khi nào tiểu thần thỉnh cầu Ngài.
Nhưng cớ sao Vương Tử đến đây?
Thần đến để xây cung điện cho Đại Vương của thần ngự, tâu Chúa Thượng.
Này Vương Tử, thế thì tốt lắm.
Vua liền cho phép Ngài được một đám cận vệ theo hầu, trọng đãi Ngài rất hậu hỷ, ban cho Ngài một tư thất rồi phán: Này Vương Tử, cứ ở đây cho đến khi Đại Vương ngự đến, nhưng đừng ăn không ngồi rồi, mà phải làm những việc đáng làm.
Ngay khi Ngài vào cung, đứng ở bậc thang gác, Ngài nghĩ thầm:
Ở đây phải làm cửa hầm nhỏ ấy, Ngài lại nghĩ đến điều này: Nhà Vua này bảo ta phải làm những việc cần làm, vậy ta phải cẩn thận để thang gác này khỏi sập trong khi ta đang đào hầm.
Rồi Ngài tâu Vua: Tâu Chúa Thượng, khi tiểu thần bước vào đứng bên chân cầu thang, nhìn vào công trình mới xây này, tiểu thần thấy một khuyết điểm trong cầu thang lớn này. Nếu Chúa Thượng ưng thuận, xin phán bảo cho phép tiểu thần sửa sang lại.
Này Vương Tử, tốt lắm, cứ làm đi. Ngài quan sát chỗ ấy cẩn thận, định nơi làm lối ra của đường hầm rồi Ngài dời cầu thang đi nơi khác và để cho đất chỗ ấy khỏi sụp, Ngài đặt một sàn gỗ giữ cầu thang thật chắc chắn cho nó khỏi sụp. Nhà Vua vô tình tưởng Ngài làm việc này vì thiện ý cho mình.
Bậc Đại Sĩ ở đó một ngày xem xét việc sửa chữa, rồi hôm sau trình Vua: Tâu Chúa Thượng, nếu tiểu thần được biết Đại Vương của tiểu thần sẽ phải ngự ở đâu, tiểu thần sẽ xin thu xếp chu đáo việc đó.
Này bậc Trí Giả, tốt lắm, Ngài cứ chọn nơi nào Ngài muốn trong Kinh Thành này, trừ cung điện trẫm ra thôi.
Tâu Đại Vương, chúng thần là ngoại nhân, Đại Vương có nhiều bậc trọng thần, nếu chúng thần chiếm tư dinh của họ, binh sĩ của Đại Vương sẽ gây chiến với chúng thần.
Vậy chúng thần phải làm sao đây?
Này bậc Trí Giả, đừng nghe họ, cứ chọn nơi nào vừa ý Ngài là được.
Tâu Đại Vương, họ sẽ đến kêu nài với Đại Vương mãi, việc ấy sẽ không làm Đại Vương hài lòng đâu. Song nếu Đại Vương ban phép, chúng thần sẽ đến canh giữ cho đến khi chiếm xong các tư thất ấy, họ sẽ không đi ra cửa được, mà rồi phải bỏ đi thôi. Như vậy cả Đại Vương lẫn chúng thần đều được toại ý.
Vua chấp thuận. Bậc Đại Sĩ liền cho quân hầu canh ở chân và đầu cầu thang, ở đại hoàng môn và khắp nơi, rồi ra lệnh không cho ai đi qua cả. Ngài lại ra lệnh cho quân hầu đến cung Thái Hậu, làm như thể sắp phá cung.
Khi họ bắt đầu gỡ ngói, gạch, đất sét khỏi cổng và tường, Thái Hậu nghe tin vội nói hỏi: Này các ngươi sao lại phá sập cung của ta?
Bậc Trí Giả Mahosadha muốn phá cung này để xây cung khác cho Đức Vua của Ngài ngự. Nếu vậy thì các ngươi cứ ở cung này cũng được.
Đoàn tùy tùng của Đại Vương chúng thần rất đông đảo, cung này không đủ, chúng thần phải xây cung rộng hơn cho Ngài.
Các ngươi không biết ta ư, ta là Thái Hậu, ta sẽ đi gặp Vương nhi xem lại việc này.
Chúng thần đang thi hành lệnh Vua, nếu lệnh bà ngăn cản được thì cứ làm.
Thái Hậu nổi giận bảo: Để ta xem cách gì trị các ngươi đây. Rồi bà đến cung môn, nhưng họ không để bà đi vào.
Này các khanh, ta là Thái Hậu mà.
Chúng thần biết lệnh bà, nhưng Đức Vua ra lệnh không cho ai vào cả. Xin lệnh bà lui ra.
Bà không vào cung được đành đứng nhìn.
Một tên quân hầu bảo: Lệnh bà làm gì đây, xin lui ra. Gã nắm lấy cổ bà ném xuống đất.
Bà nghĩ thầm: Chắc chắn phải có lệnh Vua, nếu không chúng không dám làm vậy đâu. Ta tìm gặp bậc Trí Giả mới được.
Bà hỏi Ngài: Này Vương Tử Mahosadha, tại sao Vương Tử phá sập cung của ta?
Song Ngài không muốn nói chuyện với bà.
Một người đứng cạnh đó hỏi: Tâu lệnh bà nói gì?
Này nam tử, tại sao bậc Trí Giả phá sập cung của ta?
Để xây cung cho Vua Vedeha ngự.
Cớ sao vậy này nam tử, trong Kinh Thành rộng lớn này Ngài không tìm được một cung thất nào để Vua ngự sao?
Hãy nhận lễ vật mọn này, một trăm ngàn đồng tiền và thưa với Ngài đi xây dựng nơi khác. Tâu lệnh bà, thế thì tốt lắm, chúng thần sẽ để yên cung của lệnh bà, nhưng xin lệnh bà chớ cho ai biết việc nhận lễ vật này để họ khỏi lo lót cho chúng thần để yên nhà của họ.
Này nam tử, nếu họ kháo nhau rằng Thái Hậu phải cần lo lót thì nhục nhã cho ta biết bao!
Ta không cho ai hay đâu. Người kia bằng lòng nhận một trăm ngàn đồng tiền rồi rời cung. Sau đó gã đến cung Kevatta, lão này vừa đến cửa cung, đã bị cây tre quất vào lưng tét cả da thịt mà cũng không vào cung được, nên cũng lo lót một trăm ngàn đồng tiền.
Cứ bằng cách này họ chiếm nhà khắp Kinh Thành, để đòi của đút lót, họ thu được chín mươi triệu đồng tiền vàng.
Sau đó bậc Đại Sĩ đi khắp Kinh Thành, rồi trở về cung. Vua hỏi Ngài đã tìm ra chỗ chưa.
Ngài bảo: Tâu Đại Vương, dân chúng đều muốn dâng nhà cửa, nhưng khi chúng thần đến nhận gia sản, họ hết sức âu sầu, chúng thần không muốn gây nên sự bất mãn. Ngoài Kinh Thành, khoảng một dặm, giữa Kinh Thành và Sông Hằng có một nơi chúng thần có thể xây cung điện cho Đại Vương của chúng thần.
Vua nghe vậy liền đẹp ý, rồi ông nghĩ thầm: Đánh nhau trong Kinh Thành thật nguy hiểm, vì khó phân biệt bạn thù, chứ ngoại thành thì dễ đánh, vậy ta sẽ đánh giết chúng ở ngoại thành.
Thế là Vua bảo: Được lắm, này Vương Tử, cứ xây cung ở chốn đã tìm được.
Tâu Đại Vương, xin vâng lệnh. Nhưng dân chúng không được đến nơi chúng thần xây cất để kiếm củi hay cây thuốc, nếu không, chắc chắn sẽ có tranh chấp cãi cọ không hay gì cho Đại Vương lẫn chúng thần.
Tốt lắm, này Vương Tử, cứ cấm hết lối ra vào phía ấy.
Tâu Đại Vương, bầy voi của chúng thần thích vui đùa dưới nước, nếu nước sông bị khuấy đục bẩn bùn và dân chúng than phiền vì Trí Giả Mahosadha đến đây mà họ không có nước sạch để uống, thì xin Đại Vương lượng thứ việc ấy.
Vua đáp: Được, cứ cho voi xuống vui chơi.
Rồi Vua truyền đánh trống ra lệnh: Kẻ nào đến chỗ bậc Trí Giả Mahosadha đang xây cung sẽ bị phạt một ngàn đồng tiền.
Sau đó, bậc Đại Sĩ tạ từ Vua, cùng đám tùy tùng ra ngoài thành bắt đầu xây một thành trì ở nơi đã được dành riêng ra. Bên kia Sông Hằng Ngài đã xây một ngôi làng đặt tên là Gaggali. Nơi đó Ngài dự trữ voi ngựa, xe pháo, trâu, bò.
Chính Ngài đích thân xây thành ấy và giao cho mỗi người một phận sự. Khi đã phân chia nhiệm vụ xong, Ngài bắt đầu xây đường hầm lớn, miệng hầm ở trên bờ Sông Hằng, có sáu mươi ngàn quân sĩ đào hầm.
Họ bỏ đất mới đào vào các bao da vứt xuống sông, hễ nơi nào đất được thả xuống thì bầy voi đến dẫm lên, khiến Sông Hằng vẩn đục cả bùn.
Dân chúng than phiền rằng từ khi Ngài Mahosadha đến đây, họ không có nước sạch để uống, nước sông vấy bùn, phải làm sao đây?
Quân thám tử của bậc Đại Sĩ bảo họ rằng bầy voi của Ngài đang chơi đùa dưới nước làm khuấy bùn lên, cho nên nước mới đục.
Lúc bấy giờ mọi dự định của Bồ Tát đều được thành tựu, vì thế trong hầm mới, các rễ cây, sỏi đá đều chìm xuống đất. Lối vào đường hầm nhỏ ở bên trong Kinh Thành, có bảy trăm quân đang đào hầm nhỏ ấy.
Họ mang đất trong bao da đổ vào thành, mỗi lần mang đến một đống, họ lại trộn với nước xây một bức thành để dùng vào việc khác.
Còn lối vào hầm lớn nằm trong Kinh Thành có cửa vào, cao mười tám gang tay, có máy móc để khi bấm một nút thì tất cả đều đóng chặt. Phía bên kia hầm được xây bằng gạch và hồ vữa, mái lợp ván, trét hồ vữa và sơn trắng.
Bên trong có tám mươi cửa lớn và sáu mươi bốn cửa nhỏ, tất cả đều được đóng lại hoặc mở ra bằng một nút bấm. Trên mỗi phía đều có hàng trăm ổ đèn trang bị máy móc, để khi một đèn được bật sáng thì tất cả đều bật, khi một đèn được tắt thì tất cả đều tắt.
Mỗi phía có một trăm lẻ một gian phòng cho một trăm lẻ một chiến Vương. Trong mỗi phòngđặt một tọa sàng đủ màu, trong đó lại có một trường kỷ lớn được che bằng lọng trắng, mỗi phòng lại có một chiếc ngai đặt gần trường kỷ lớn ấy, một tượng mỹ nhân, nếu không sờ tay vào thì không ai bảo các tượng đó không phải người thật.
Ngoài ra, trong mọi phía hầm, các họa sĩ tinh xảo đã vẽ đủ loại tranh: Cảnh huy hoàng của Thiên Chủ Đế Thích, các miền núi Sineru Tu Di, các biển cả cùng đại dương bốn châu, dãy Himavat Tuyết Sơn, hồ Anotatta, núi Hồng Thổ, mặt trăng, mặt Trời, Cõi Tứ Thiên Vương với sáu tầng Trời Cõi Dục và các thành phần trong đó.
Tất cả đều hiện ra trong địa đạo này, nền đất rải cát trắng như một phiến bạc, trên các mái đầy hoa sen nở. Hai bên có lều quán đủ loại, rải rác các rèm hoa lơ lững tỏa mùi thơm ngát. Như vậy họ trang hoàng địa đạo rực rỡ chẳng khác nào Thiên Đình Sudhamma thiện pháp đường ở Cõi Trời Ba Mươi Ba.
Lúc bấy giờ sau khi ba trăm thợ đóng ba trăm chiếc thuyền xong, họ liền chất đầy thuyền mọi dụng cụ sẵn sàng lúc cần đến, rồi đem xuống trình bậc Trí Giả. Ngài dùng họ ở Kinh Thành, bảo họ giấu chúng ở một nơi bí mật để đưa chúng ra khi có lệnh Ngài.
Trong Kinh Thành các hào nước, trường thành, hoàng môn, tháp canh, cung thất cho Vương Tử và nhà dân chúng, chuồng voi, hồ nước đều đã xong xuôi. Như vậy Đại Địa đạo và tiểu địa đạo cùng toàn Kinh Thành được xây xong trong bốn tháng.
Sau đó, bậc Đại Sĩ gởi sớ trình xin Vua đến ngự. Khi Vua được sớ, ông rất đẹp lòng, liền cùng đoàn xa giá rầm rộ lên đường.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Khổ Uẩn - Phần Bốn - Vị Ngọt Các Cảm Thọ
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Hai
GHI DẤU TRÊN THUYỀN ĐỂ TÌM ĐỒ RƠI XUỐNG BỂ
Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Năm - Phẩm Song - Kinh Ngưu Giác Sa La Lâm
Phật Thuyết Kinh Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội - Phần Mười