Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Mốt - Phẩm Một - Phẩm Tám Mươi Bài Kệ Số Một - Chuyện đại Thiên Nga Tiền Thân Mahàhamsa - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT
PHẨM MỘT
PHẨM TÁM MƯƠI BÀI KỆ SỐ MỘT
CHUYỆN ĐẠI THIÊN NGA
TIỀN THÂN MAHÀHAMSA
PHẦN MỘT
Kìa đám hồng nga cất cánh bay. Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Trưởng Lão Ànanda hy sinh tính mạng.
Phần duyên khởi cũng giống hệt như chuyện đã có nhưng vào dịp này, trong lúc bậc Đạo Sư kể chuyện quá khứ, đã tường thuật cổ tích sau đây.
Ngày xưa ở thành Ba La Nại, một vị Quốc Vương mệnh danh Samyama có vị Chánh Hậu tên là Khemà Thái Hòa. Thời ấy, Bồ Tát cùng đám tùy tùng chín mươi ngàn thiên nga trú trên đỉnh núi Cittakùta.
Một ngày kia vào lúc tảng sáng, Hoàng Hậu Khemà thấy chiêm bao: Một bầy thiên nga màu vàng ánh đến đậu trên ngai Vua và thuyết pháp với giọng ngọt ngào.
Trong khi Hoàng Hậu đang lắng tai nghe và tán thán mà chưa được trọn bài thuyết giảng, thì bình minh đã đến, bầy thiên nga liền chấm dứt pháp thoại và bay qua cửa sổ mở rộng Hoàng Hậu vội vàng thức dậy kêu to: Bắt lấy chúng, bắt lấy bầy thiên nga trước khi chúng thoát thân. Và trong lúc vừa dang rộng cánh tay, bà tỉnh dậy.
Nghe lời bà, đám cung nữ thưa: Tâu lệnh bà, bầy thiên nga ở đâu?
Và chúng cười khúc khích.
Lúc ấy, Hoàng Hậu biết đó chỉ là giấc mơ, và nghĩ thầm: Ta không thể thấy một vật không có thật: Chắc chắn có loài kim nga trên đời này, song nếu ta tâu Đức Vua: Thiếp mong muốn nghe loài kim nga thuyết pháp.
Ngài sẽ bảo: Ta chưa từng thấy giống kim nga nào cả, làm gì có chuyện chim kim nga thuyết pháp. Và Ngài sẽ không quan tâm đến vấn đề đó.
Song nếu ta tâu: Thần thiếp có niềm ao ước ấy trong lúc mang thai. Ngài sẽ cho tìm chúng mọi cách và thế là ta được thỏa tâm nguyện.
Vì vậy, vừa giả bệnh, vừa dặn dò các cung nữ xong, bà đi nằm. Khi Vua đã ngự lên ngai mà không thấy bà đến yết kiến như thường lệ, liền hỏi Hoàng Hậu Khemà ở đâu và khi nghe bà bị bệnh, Vua đến thăm bà, vừa ngồi một bên giường bà, vừa vuốt lưng và hỏi thăm bệnh tình của bà.
Bà đáp: Tâu Chúa Thượng, thần thiếp chẳng bệnh gì cả, song thiếp chợt có những mềm ao ước của một thai phụ. Này ái khanh, cứ nói đi, ái khanh muốn gì, trẫm sẽ tìm được cho ái khanh ngay.
Tâu Chúa Thượng, thiếp ao ước nghe chim kim nga thuyết pháp trong lúc chim ấy ngự trên ngai vàng, có chiếc lọng che trên đầu, và thiếp mong dâng lên chim ấy nhiều tràng hoa thơm cùng các lễ vật khác để tỏ lòng cung kính tán thán của thiếp. Nếu thiếp đạt được điều này thì quý biết bao, nếu không, thiếp chẳng muốn sống nữa.
Vua liền an ủi bà và bảo: Nếu có vật ấy trên thế giới này thì ái khanh sẽ được toại nguyện, chớ lo buồn.
Rồi ra khỏi cung thất của Hoàng Hậu, Vua tham vấn các vị Đại Thần và phán: Này các khanh, hãy lưu ý:
Hoàng Hậu Khemà bảo: Nếu thiếp nghe được chim kim nga thuyết pháp thì thiếp sẽ sống, nếu không, thiếp sẽ chết.
Vậy hãy cho trẫm biết, có loài chim kim nga nào chăng?
Triều thần đáp: Tâu Chúa Thượng, chúng thần chưa từng nghe hoặc thấy loài ấy.
Thế ai biết được chuyện này?
Tâu Chúa Thượng, các Bà La Môn.
Vua liền triệu tập các Bà La Môn đến và hỏi: Có chuyện nào như việc loài chim kim nga thuyết pháp chăng?
Tâu Đại Vương, có. Theo truyền thuyết của chúng thần, các loài cá, cua, rùa, nai, công và thiên nga đều có sắc vàng ánh. Trong số ấy, người ta bảo dòng giống thiên nga Dhatarattha rất tinh khôn thông thái. Cộng thêm loài người nữa là bảy loài sinh vật có màu vàng ròng.
Vua vô cùng hoan hỷ, hỏi: Vậy loài hồng nga thông thái này cư ngụ ở đâu?
Tâu Đại Vương, chúng thần không biết.
Thế thì ai biết chứ?
Bọn bẫy chim Họ đáp.
Vua liền tập hợp tất cả dân bẫy chim từ khắp nước về, và hỏi họ: Này các hiền hữu, các chim kim nga thuộc dòng giống Dhatarattha cư trú ở đâu?
Một người bẫy chim đáp: Tâu Đại Vương, theo truyền thuyết từ đời nọ sang đời kia, người ta bảo chúng cư trú trong dãy Tuyết Sơn, trên đỉnh Cittakùta.
Vậy khanh có biết làm cách nào bắt được chúng chăng?
Tâu Đại Vương, thần không biết. Vua liền triệu tập các Bà La Môn thông thái, sau khi cho họ biết có loài chim kim nga trên đỉnh Cittakùta, Vua hỏi họ có cách nào để bẫy chúng chăng.
Họ đáp: Tâu Đại Vương, cần gì chúng thần phải bắt chim?
Chúng thần sẽ bày mưu kế đưa chim về gần Kinh Thành và bắt chúng.
Mưu kế gì vậy?
Tâu Đại Vương, về phía bắc Kinh Thành, xin Đại Vương ra lệnh đào một cái hồ rộng ba dặm, một địa điểm thật an toàn, chứa đầy nước, trồng đủ loại ngũ cốc cùng năm loại hoa sen phủ mặt hồ.
Rồi giao hồ cho một người bẫy chim thiện xảo chăm sóc, không cho phép ai đến gần hồ, và phân công nhiều người canh giữ bốn góc, rao truyền cho dân chúng biết đây là hồ bảo tồn chim muông.
Khi nghe vậy, mọi loài chim sẽ đến đó. Sau đó các chim kim nga này nghe bọn chúng bảo nhau hồ này thật an toàn, tức nhiên sẽ đến thăm hồ và Đại Vương sẽ bảo lấy thòng lọng bẫy chúng.
Vua nghe vậy, liền bảo đào hồ như họ miêu tả ở vùng họ nói, rồi triệu một người bẫy chim thiện xảo đến, ban cho gã một ngàn đồng tiền và phán: Từ nay ngươi hãy bỏ nghề cũ, trẫm sẽ cấp dưỡng vợ con gia đình ngươi. Cẩn thận canh giữ hồ bình an này và buộc mọi người phải tránh xa hồ, truyền rao khắp bốn phương rằng đây là hồ bảo tồn chim muông, hễ có loài chim nào lai vãng nơi đây đều là của trẫm, và khi loài chim kim nga đến, ngươi sẽ được vinh hoa phú quý.
Cùng với những lời khích lệ này, Vua giao gã chăm nom hồ bảo tồn. Từ ngày ấy, gã bẫy chim làm đúng như Vua truyền canh giữ nơi ấy và do gã bảo vệ hồ bơi được bình an, sẽ dần dần được mệnh danh là người bẫy chim Khemà Bình An.
Từ đấy, mọi loài chim đến đậu nơi ấy, và vì chúng truyền tin cho nhau rằng hồ này bình an ổn định, nên nhiều loài thiên nga bay đến. Trước hết là loài thiên nga màu cỏ xanh, rồi nhờ chứng loan báo, kế đó là loài hoàng nga, và theo cách này giống thiên nga đỏ tía, thiên nga trắng và thiên nga Paka lần lượt đến.
Khi chúng đến, Khemà trình Vua như vậy: Tâu Đại Vương, năm loài thiên nga đã đến, và chúng vẫn đang tiếp tục ăn uống hồ này. Giờ đây thiên nga Paka đã đến, chỉ vài ngày nữa là loài kim nga sẽ đến. Xin Đại Vương chớ lo âu nữa.
Vua nghe vậy liền truyền đánh trống lệnh công bố khắp Kinh Thành rằng không ai được phép đến nơi kia, bất cứ kẻ nào bất tuân sẽ chịu hình phạt chặt tay chân và tịch thu gia sản, nên từ đó không ai dám đến đó nữa.
Bấy giờ, thiên nga Paka cư trú không xa đỉnh Cittakùta trong Kim động. Loài chim này có sức mạnh phi thường và cũng giống như thiên nga dòng họ Dhatarattha, màu sắc thân của chúng rất đặc sắc, còn con gái của thiên nga Vương Paka lại có màu vàng ánh.
Vì thế Vua cha nghĩ rằng nàng xứng đôi với thiên nga Vương Dhatarattha và gả nàng cho Vua chim kia. Nàng rất được Vua chim sủng ái, nhờ vậy hai dòng họ thiên nga này trở nên thân thiết nhau.
Một hôm bầy thiên nga hầu cận Bồ Tát hỏi thiên nga Paka: Các bạn tìm thức ăn ở đâu bây giờ?
Chúng tôi đang kiếm ăn gần Ba La Nại, trong một vùng nước an toàn, nhưng còn các bạn bay tận đâu?
Đến nơi như vậy, như vậy chúng đáp.
Sao các bạn không đến hồ bảo tồn chim muông?
Đó là một cái hồ tuyệt đẹp, đủ các loài chim, được năm loại sen bao phủ, rất nhiều loại ngũ cốc và quả cây, cùng nhiều đàn ong đủ loại bay lượn vo ve. Tại bốn phía đều có người canh giữ công bố hồ được vĩnh viễn tránh khỏi hiểm nguy. Không ai được phép đến gần, lại càng không có việc hại nhau đâu.
Theo cách này, chúng cứ ca tụng hồ bình an mãi. Khi nghe chuyện thiên nga Paka nói, chúng trình với Sumukha Sư Mục Kha.
Bầy chim kia bảo chúng thần ở gần Ba La Nại có một hồ bình an như vậy, dòng họ Paka vẫn thường đi ăn tại đó. Xin tướng công tâu với Đại Vương Dhatarattha và nếu Ngài cho phép chúng thần, thì chúng thần cũng sẽ kiếm mồi tại đó.
Sumukha trình với chúa chim, Ngài suy nghĩ: Loài người quả thật đầy mưu thần chước quỷ. Chắc chắn phải có lý do gì đây. Từ xưa tới nay không hề có hồ như vậy. Chắc hẳn bây giờ hồ đã được xây để bắt chúng ta.
Ngài liền bảo Sumukha: Khanh đừng tán thành việc đi đến hồ kia. Hồ này chẳng được họ xây bằng thiện ý đâu. Mà nó được xây để bắt chúng ta đó. Chắc chắn loài người đầy ác tâm và mưu mô xảo quyệt. Hãy ở lại chỗ các khanh thường kiếm mồi.
Lần thứ hai bầy kim nga thưa với tướng Sumukha rằng chúng rất nóng lòng đi đến hồ Bình An và vị ấy lại trình nguyện vọng của chúng lên chúa chim.
Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Không nên để quyến thuộc ta bất mãn vì ta. Vậy chúng ta cùng đến đó. Vì vậy được chín mươi ngàn thiên nga hộ tống, Ngài bay đến đó và gặm chồi non, vui đùa theo cung cách loài thiên nga xong rồi bay về núi Cittakùta. Sau khi bầy chim đã ăn uống và giã từ, gã bẫy chim Khemaka đi trình Vua Ba La Nại việc chim đã đến.
Vua vô cùng hoan hỷ phán: Này hiền hữu Khemaka, hãy gắng bắt lấy một hai thiên nga, rồi ta sẽ ban thưởng vinh hoa phú quý cho khanh. Cùng với các lời này, Vua ban bổng lộc cho gã và bảo gã ra về.
Khi trở lại hồ, người bẫy chim ngồi giấu mình trong cái thùng rỗng và ngắm các hoạt động của bầy thiên nga. Các vị Bồ Tát quả thật đã thoát ly tham dục. Vì thế bậc Đại Sĩ bắt đầu từ nơi đã hạ cánh xuống, bước đi ăn lúa một cách chừng mực từ tốn. Còn các chim kia đều bay nhảy kiếm mồi khắp nơi.
Do vậy, người bẫy chim suy nghĩ:
Thiên nga này đã thoát ly tham dục: Đây chính là con chim ta phải bắt lấy.
Ngày hôm sau trước khi bầy thiên nga hạ cánh xuống hồ, gã đến một nơi gần đó giấu mình trong cái thùng rỗng, ngồi yên tại đó nhìn qua khe hở của thùng.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ được chín mươi ngàn thiên nga hộ tống đáp xuống nơi Ngài đã đến hôm trước, và đậu ngay tại chỗ ăn hôm qua, tiếp tục gặm lúa.
Người bẫy chim nhìn qua khe hở của thùng, chú ý ngay vẻ đẹp phi thường của chim này, và suy nghĩ: Chim này lớn bằng cỗ xe, lông vàng ánh và cổ lại có ba khoang đỏ. Ba khoang này chạy từ cổ xuống dọc theo phần giữa bụng, trong khi ba khoang khác chạy xuống nổi rõ trên lưng, toàn thân tỏa sáng như một khối vàng ròng treo trên sợi dây làm bằng chỉ đỏ. Đây chắc hẳn là chim chúa và chính là con chim ta quyết bắt lấy.
Còn chúa thiên nga, sau khi ăn lúa trên đồng ruộng xong, lại vui đùa trong vũng nước và sau đó được đàn chim hộ tống trở về núi Cittakùta. Suốt sáu ngày liền, Ngài kiếm mồi theo kiểu ấy.
Vào ngày thứ bảy, Khemakha kết một sợi dây lớn bằng lông ngựa đen và buộc dây thòng lọng trên cây sào, rồi vì biết chúa thiên nga sẽ đáp xuống ngày mai vào chỗ cũ, gã đặt cây sào có buộc cái bẫy ở trên vào trong vũng nước. Hôm sau, chúa thiên nga hạ cánh xuống liền bị mắc chân vào bẫy, nó kẹp chặt chân chim như sợi dây sắt siết mạnh. Chim chúa muốn phá bẫy nên kéo lê nó đi và lấy hết sức đạp mạnh vào bẫy.
Trước tiên chỗ da vàng ánh bị bầm dập, kế đó thịt màu đỏ thắm bị rách, rồi gân đứt lìa, cuối cùng đáng lẽ chân chim đã bị gãy, song nghĩ rằng thân thể tàn tật không xứng đáng với một chúa chim, nên chim không chống cự nữa.
Trong khi các chỗ đau bắt đầu nhức nhối, chim suy nghĩ: Nếu ta thốt tiếng kêu cứu quyến thuộc ta sẽ hoảng hốt và dù chưa ăn no đủ, chúng cũng sẽ chạy trốn, thì e còn đói lòng, chúng sẽ rơi xuống nước. Vì thế cố chịu đựng nỗi đau, chim đứng yên trong gọng kìm của chiếc bẫy, giả vờ ăn lúa. Nhưng khi đàn chim đã no nê rồi, và đang chơi đùa theo kiểu cách thiên nga, chim chúa liền thốt tiếng kêu bị nạn.
Bầy thiên nga nghe vậy bay bổng lên đi mất, như đã được tả trước đáy.
Tướng quân Sumukha cũng xem xét mọi việc như đã kể, rồi bay đi tìm quanh quẩn mà không thấy bậc Đại Sĩ trong ba đàn thiên nga lớn kia, liền suy nghĩ: Chắc hẳn đây là một chuyện khủng khiếp đã xảy ra với Đức Vua và vị ấy liền quay về nói: Tâu Chúa Thượng, xin đừng sợ, thần sẽ giải cứu Chúa Thượng dù phải hy sinh tánh mạng của thần. Rồi vừa đáp xuống vũng bùn, chim ấy an ủi vỗ về bậc Đại Sĩ.
Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Chín mươi ngàn thiên nga đã bỏ ta bay đi mất, chỉ còn chim này một mình trở lại đây. Ta không biết khi người bẫy chim đến, Sumukha cũng sẽ bỏ ta mà bay đi không.
Rồi để thử lòng chim kia, Ngài dựa mình đầy máu vào chiếc sào buộc cái bẫy, và ngâm ba vần kệ:
Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư Mục Kha vàng ánh,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này?
Họ hàng ta đã bỏ rơi ta,
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ ngợi,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?
Thiên nga cao thượng, hãy bay về,
Tù tội làm sao có bạn bè?
Lúc được tự do, Sư mục hỡi,
Bay đi, đừng bỏ dịp may kề!
Nghe vậy, Sumukha nghĩ thầm:
Thiên nga Vương này không biết bản tính ta. Ngài tưởng ta chỉ là thứ bạn nói lời xu nịnh.
Ta sẽ tỏ cho Ngài thấy ta yêu quý Ngài biết bao, rồi chim ấy ngâm bốn vần kệ:
Không, thần sẽ chẳng bỏ nga Vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên Ngài, dù sống chết không màng.
Không, thần sẽ bỏ nga Vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Chẳng dự vào hành vi hạ liệt
Với bầy chim nọ, chẳng theo gương.
Thần đồng tâm hiệp ý cùng Ngài,
Đồng bạn vui chơi thuở thiếu thời,
Giữa đám Quần Thần, tâu Chúa Thượng,
Nổi danh là thủ lãnh hùng oai.
Khi về với quyến thuộc thân bằng
Thần biết làm sao để nói năng,
Ví thử bỏ Ngài cho số phận,
Vô tình bay bổng thật nhanh chân?
Không, thà chịu chết hơn là sống
Khi phải đóng vai hạ liệt thần.
Khi Sumukha đã ngâm bốn vần kệ như giọng sư tử rống, bậc Đại Sĩ lên tiếng nêu rõ đức độ của bạn:
Bản tính khanh, Sư Mục Tướng quân,
Vẫn thường an trú lý như chân,
Không bao giờ bỏ rơi Vua chúa,
Thân hữu, hãy tìm cách thoát thân.
Khi ta nhìn thấy mặt hiền khanh,
Trong trí ta không khỏi hãi kinh,
Dù cảnh ngộ buồn, khanh cũng sẽ
Tìm đường giải cứu bạn thân mình.
Trong lúc đôi chim đang đàm luận như vậy, người bẫy chim đứng trên bờ hồ thấy bầy thiên nga bay rẽ ra thành ba đàn và không biết việc này có ý nghĩa gì, gã chợt nhìn đến nơi gã đã đặt bẫy và thấy Bồ Tát dựa mình vào cây gậy có cột thòng lọng.
Vô cùng mừng rỡ, gã buộc thắt lưng lại cầm gậy vội vàng đến gần và đứng trước đôi chim, như ngọn lửa ở đầu chiếc vòng, đầu gã vươn cao trên đôi chim và gót chân chôn chặt dưới bùn.
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng rõ vấn đề:
Đôi chim cao thượng đã trao nhau
Tư tưởng như vậy thật quý cao,
Hãy ngắm kẻ săn chim táo bạo
Tay cầm chiếc gậy, bước chân mau.
Thấy gã đến gần, Sư Mục Kha
Đứng lên ngay trước chúa thiên nga,
Hiên ngang khích lệ Quân Vương ấy
Đầy nỗi lo trong bước sẩy sa.
Nga Vương cao quý, chớ kinh hoàng,
Kinh hãi chẳng là cách Đại Vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu với lý luận khôn ngoan
Bằng hành động hết lòng can đảm
Lần nữa chúa công được thoát nàn.
Sumuakha an ủi bậc Đại Sĩ như vậy, rồi vừa đi đến bên người bẫy chim, vừa dùng tiếng người thật êm dịu hỏi: Này hiền hữu, danh tánh của bạn là gì?
Y đáp: Này chúa loài kim nga, ta có tên là Khemaka.
Sumukha đáp: Này hiền hữu, đừng tưởng rằng chỉ một thiên nga tầm thường đã bị bắt vào bẫy lông ngựa của hiền hữu: Đó chính là chúa công Dhatarattha, lãnh tụ của chín mươi ngàn thiên nga đang bị mắc bẫy. Ngài thật là hiền trí, đức hạnh, và đang sẵn sàng hòa giải. Ta sẽ làm bất cứ việc gì mà Ngài phải làm cho hiền hữu. Ta cũng có sắc vàng ánh và ta muốn hy sinh thân mạng mình vì Ngài.
Nếu hiền hữu muốn nhổ lông Ngài, xin hãy nhổ lông ta. Hoặc nếu hiền hữu muốn làm việc gì khác với da, thịt, gân, xương Ngài, xin cứ lấy ra từ thân ta. Hơn nữa, giả sử hiền hữu muốn luyện Ngài thành chim thuần, xin hãy luyện ta, bán ta lúc còn sống.
Hoặc nếu muốn kiếm tiền, xin hãy bán ta, chứ đừng giết Ngài, vì Ngài là bậc đầy đủ trí tuệ và đức hạnh như thế. Nếu hiền hữu muốn giết Ngài, hiền hữu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi địa ngục hoặc đọa xứ khổ cảnh tương tự.
Sau khi đe dọa kẻ bẫy chim bằng nỗi kinh hoàng địa ngục, khiến y phải nghe lời khuyến dụ êm tai của mình, Sumukha lại đến gần đứng cạnh Bồ Tát, và an ủi Ngài.
Gã bẫy chim nghe lời ấy, suy nghĩ: Chỉ là một con chim như thế, nó lại có thể làm được những gì loài người không thể làm được. Vì loài người không chung thủy trong tình bằng hữu. Ôi đấy thật là một chim Thần, đầy trí tuệ và biện tài.
Toàn thân gã rung động với nỗi hoan lạc kỳ diệu, tóc gã dựng đứng vì kinh ngạc, gã làm rơi chiếc gậy và chấp hai tay lên trước trán, như người kính lễ mặt Trời, gã đứng đó tuyên dương công hạnh của Sumukha.
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
Người săn chim nọ đã nghe lời
Chim ấy nói ra với biện tài,
Tóc dựng đứng lên, tay chấp lại,
Tôn sùng kính lễ trước chim Trời.
Chưa được nghe hay thấy trước giờ
Chim dùng tiếng nói của người ta,
Và bằng giọng lưỡi chim tuyên thuyết
Chân lý tối cao quả thật là.
Với ngươi, chim có họ hàng gì?
Khi cả đàn cùng chạy trốn đi,
Dù được tự do, ngươi ở lại
Bên chim bị bắt một mình kia?
Khi nghe người bẫy chim độc ác hỏi câu này, Sumukha suy nghĩ: Kẻ ấy đã động lòng, ta muốn bày tỏ cho y thấy đức tính của ta để y hồi tâm thêm nữa.
Và chim ngâm kệ:
Hỡi cừu nhân của đám Thiên Nga,
Ngài chúa công, ta đại tướng mà,
Ta chẳng bỏ Ngài cho số phận,
Bình an đào thoát một mình ta.
Đừng để Thiên Nga chúa đại hùng
Nơi đây phải chết thật đơn thân,
Bên Ngài, hạnh phúc ta tìm thấy,
Ta được Ngài như đáng chúa công.
Khi nghe lời thuyết giáo dịu dàng về cách nhận lãnh trách nhiệm của chim kia, người bẫy chim tràn ngập hân hoan và lông tóc dựng đứng vì kinh ngạc, suy nghĩ: Giả sử ta giết thiên nga chúa đầy đủ đạo hạnh và mọi đức tính này, ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi bốn khổ hình. Vậy cứ để Vua Ba La Nại muốn làm gì ta cũng mặc, ta sẽ trao chim mắc bẫy này như quà biếu không cho Sumukha và thả chim đi.
Gã liền ngâm kệ:
Ngươi kính Điểu Vương, cao quý thay,
Vì ngươi vẫn sống vời chim này,
Hãy bay về chốn ngươi chung sống,
Ta thả tự do hiền chúa ngay.
Nói vậy xong, người bẫy chim đầy thiện ý đến gần bậc Đại Sĩ uốn cây sào xuống, đặt chim chúa trên bùn, và lại nhấc sào ra khỏi thòng lọng. Sau đó gã kéo chim ra khỏi hồ, vừa đặt chim trên đám cỏ Kusa non, gã vừa nhẹ tay tháo chiếc bẫy đã kẹp chân chim.
Lòng gã rạt rào tình thân mến bậc Đại Sĩ, và với từ tâm, gã lấy nước rửa sạch máu rồi chùi đi chùi lại nhiều lần. Nhờ uy lực của từ tâm ấy, gân dính liền gân, thịt liền thịt, da liền da, chân chim lại lành như trước, chẳng còn gì khác với chân kia, và Bồ Tát ngồi đó hân hoan thư thái như xưa.
Sumukha thấy chim chúa hạnh phúc dường nào nhờ hành động của mình, nên vô cùng hoan hỷ nghĩ thầm: Người này đã đem lại lợi ích cho ta, nhưng ta chưa làm gì cho y cả. Nếu y bắt ta cho các triều thần và giao ta cho họ, y sẽ được một số tiền lớn, và nếu y bắt ta cho chính y, y sẽ bán ra rồi thu lợi lớn. Ta muốn hỏi y đôi điều.
Như vậy do lòng mong ước làm ích lợi cho gã, chim ngâm kệ hỏi:
Nếu vì mục đích của riêng tây,
Ông đã bắt ta, đặt bẫy này,
Ta được tự do ông trả lại,
Lòng không lo lắng, nghĩ suy đầy.
Song bằng không, quả thật to gan,
Người bẫy chim tha mạng điểu vương
Mà chẳng vì ân Vua phép nước,
Hiển nhiên trộm cướp chẳng gì hơn.
Người bẫy chim nghe vậy bảo: Ta không bắt chim cho ta đâu, ta được Vua Samyama ở Ba La Nại sai làm.
Rồi gã kể cho chim nghe toàn thể câu chuyện, từ lúc đầu Hoàng Hậu nằm mộng cho đến khi Vua nghe có loài thiên nga đến, và phán: Này hiền hữu Khemaka, hãy cố bắt một hai thiên nga, rồi trẫm sẽ ban đại phú quý cho khanh, và cấp lương thực cho gã lên đường.
Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: Người bẫy chim này không kể gì đến kế sinh nhai của riêng mình, khi thả chúng ta ra là gây khó khăn cho y, song nếu từ đây, ta trở về Cittakùta, thì trí tuệ siêu phàm của điểu Vương Dhatarattha cũng như hành động vì tình bằng hữu của ta đều không được biểu lộ, người bẫy chim cũng sẽ không hưởng đại phú quý, nhà Vua cũng không được an trú vào ngũ giới và ước nguyện của Hoàng Hậu cũng không thành tựu.
Vì thế, chim ấy đáp: Này hiền hữu, nếu quả thật như vậy, thì ông không thể để cho chúng ta đi. Hãy đưa chúng ta đến yết kiến Vua và Ngài sẽ đối xử với chúng ta tùy thích.
Chim ấy lại ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:
Ông là tôi tớ của Quân Vương,
Ý nguyện Ngài, ông phải vẹn toàn,
Tùy thích Vua Samya định đoạt
Với ta, đối xử hợp tâm can.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn - Phẩm Một - Phẩm ánh Sáng Của Bồ Tát Minh Võng
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Khu Rừng Sừng Bò
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Phi Luật Chánh Luật
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh A Nậu La
Phật Thuyết Kinh Bản Sự - Phẩm Ba - Phẩm Ba Pháp - Phần Sáu