Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Khu Rừng Sừng Bò
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TRUNG BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
ÐẠI KINH RỪNG SỪNG BÒ
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn ở tại khu vườn trong rừng Gosinga có nhiều cây Ta La cùng với một số đông Thượng Tọa đệ tử nổi tiếng như Tôn Giả Sariputta Xá Lợi Phất Tôn Giả Maha Moggallana Ðại Mục Kiền Liên, Tôn Giả Maha K Assapa Ðại Ca Dếp, Tôn Giả Anuruddha A Na Luật Đà, Tôn Giả Revata Ly Bà Đa, Tôn Giả Ananda A Nan cùng với một số Thượng Tọa đệ tử nổi tiếng khác.
Rồi Tôn Giả Maha Moggallana vào buổi chiều, sau khi Tham Thiền đứng dậy, đi đến chỗ Tôn Giả Maha K Assapa ở, sau khi đến bèn nói với Tôn Giả Maha K Assapa: Hiền Giả K Assapa, chúng ta hãy đến chỗ Tôn Giả Sariputta để nghe pháp.
Thưa vâng, Hiền Giả.
Tôn Giả Maha K Assapa vâng đáp Tôn Giả Maha Moggallana. Rồi Tôn Giả Maha Moggallana, Tôn Giả Maha K Assapa và Tôn Giả Anuruddha đi đến chỗ Tôn Giả Sariputta để nghe pháp.
Tôn Giả Ananda thấy Tôn Giả Maha Moggallana, Tôn Giả Maha K Assapa và Tôn Giả Anuruddha đi đến chỗ Tôn Giả Sariputta để nghe pháp, sau khi thấy vậy liền đi đến chỗ Tôn Giả Revata và nói với Tôn Giả Revata: Này Hiền Giả Revata, các bậc Thượng Nhân như vậy đã đến chỗ Tôn Giả Sariputta để nghe pháp. Này Hiền Giả Revata, chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn Giả Sariputta để nghe pháp.
Thưa vâng, Hiền Giả.
Tôn Giả Revata vâng đáp Tôn Giả Ananda. Rồi Tôn Giả Revata và Tôn Giả Ananda đi đến chỗ Tôn Giả Sariputta để nghe pháp.
Tôn Giả Sariputta thấy Tôn Giả Revata, Tôn Giả Ananda từ xa đi đến, sau khi thấy bèn nói với Tôn Giả Ananda: Tôn Giả Ananda hãy đến đây, thiện lai, Tôn Giả Ananda, vị Thị Giả Thế Tôn, vị hầu cận Thế Tôn.
Này Hiền Giả Ananda, khả ái thay khu rừng Gosinga!
Ðêm rằm sáng trăng, cây Ta La trổ hoa cùng khắp, hương Trời như được tỏa rộng khắp nơi.
Này Hiền Giả Ananda, hạng Tỳ Kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga?
Ở đây, này Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát.
Vị ấy Thuyết Pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn Giả Sariputta nói với Tôn Giả Revata: Này Hiền Giả Revata, Tôn Giả Ananda đã trả lời theo sự giải thích của mình.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả Revata: Này Hiền Giả Revata, khả ái thay ngôi rừng Gosinga, như trên. Này Hiền Giả Revata, hạng Tỳ Kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Ở đây, này Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu pháp, tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn Giả Sariputta nói với Tôn Giả Anuruddha: Này Hiền Giả Anuruddha, Tôn Giả Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả Anuruddha: Này Hiền Giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng Gosinga, như trên.
Này Hiền Giả Anuruddha, hạng Tỳ Kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Ở đây, này Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo, với Thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn Thế Giới.
Này Hiền Giả Sariputta, ví như một người có mắt lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp, quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy, này Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo, với Thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn Thế Giới. Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn Giả Sariputta nói với Tôn Giả Maha K Assapa: Này Hiền Giả K Assapa, Tôn Giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả K Assapa: Này Hiền Giả K Assapa, khả ái thay ngôi rừng Gosinga, như trên.
Này Hiền Giả K Assapa, hạng Tỳ Kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Ở đây, này Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo, tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi, tự mình sống khất thực, và tán thán đời sống khất thực, tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y.
Tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống độc cư và tán thán hạnh sống độc cư, tự mình sống không nhiễm thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấn và tán thán hạn tinh cần, tinh tấn.
Tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu thiền định và tán thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu trí tuệ, tự mình thành tựu giải thoát và tán thán sự thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn Giả Sariputta nói Tôn Giả Maha Moggallana: Hiền Giả Moggallana, Tôn Giả Maha K Assapa đã trả lời theo sự giải thích của mình.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả Mahamoggallana: Này Hiền Giả Moggallana, khả ái thay khu rừng Gosinga!
Này Hiền Giả Moggallana, hạng Tỳ Kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Ở đây, này Hiền Giả Sariputta, hai Tỳ Kheo đàm luận về Abhidhamma A Tỳ Đàm.
Các vị ấy hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, các vị trả lời được với nhau chớ không dừng lại vì không trả lời được, và cuộc đàm luận về pháp được tiếp tục.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Rồi Tôn Giả Mahamoggallana nói với Tôn Giả Sariputta: Hiền Giả Sariputta, chúng tôi đã trả lời theo sự giải thích của chúng tôi.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả Sariputta: Này Hiền Giả Sariputta, khả ái thay, khu rừng Gosinga!
Ðêm rằm sáng trăng, cây Ta La trổ hoa cùng khắp, hương Trời như được tỏa rộng khắp nơi.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Ở đây, này Hiền Giả Moggallana, Tỳ Kheo điều phục được tâm, không phải Tỳ Kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy buổi trưa.
An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Hiền Giả Moggallana, ví như một vị Vua hay vị Đại Thần của Vua có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau.
Cặp áo nào Nhà Vua muốn mặc vào buổi sáng, Nhà Vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng. Cặp áo nào Nhà Vua muốn mặc vào buổi trưa, Nhà Vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa. Cặp áo nào Nhà Vua muốn mặc vào buổi chiều, Nhà Vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều.
Cũng vậy, này Hiền Giả Moggallana, Tỳ Kheo điều phục được tâm, không phải Tỳ Kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào Tỳ Kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng.
An trú quả nào Tỳ Kheo ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa. An trú quả nào vị Tỳ Kheo ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền Giả Moggallana, hạng Tỳ Kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Rồi Tôn Giả Sariputta nói với các Tôn Giả ấy: Này Chư Hiền, chúng ta đã trả lời theo sự giải thích của chúng ta. Chư Hiền, chúng ta hãy đi đến chỗ Thế Tôn ở và thuật lại vấn đề này cho Thế Tôn rõ. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
Thưa vâng, Hiền Giả.
Các Tôn Giả ấy vâng đáp Tôn Giả Sariputta. Rồi những Tôn Giả ấy đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn Giả Sariputta bạch Thế Tôn: Ở đây, bạch Thế Tôn, Tôn Giả Revata và Tôn Giả Ananda đến tại chỗ con ở để nghe pháp. Bạch Thế Tôn, con thấy Tôn Giả Revata và Tôn Giả Ananda từ xa đi đến.
Thấy vậy, con nói với Tôn Giả Ananda: Tôn Giả Ananda, hãy đến đây, thiện lai Tôn Giả Ananda, vị Thị Giả Thế Tôn, vị hầu cận Thế Tôn.
Này Hiền Giả Ananda, khả ái thay khu rừng Gosinga!
Ðếm rằm sáng trăng, cây Ta La trổ hoa cùng khắp, hương Trời như được tỏa rộng khắp nơi.
Này Hiền Giả Ananda, hạng Tỳ Kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy, Tôn Giả Ananda trả lời với con như sau: Ở đây, Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và giữ gìn kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát.
Vị ấy Thuyết Pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Lành thay, lành thay, Sariputta!
Nếu trả lời cho được chân chánh, Ananda phải trả lời như vậy. Này Sariputta, Ananda là bậc đa văn, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe.
Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát. Vị ấy Thuyết Pháp cho bốn hội chúng, với văn cú viên dung lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên.
Bạch Thế Tôn khi nghe nói vậy, con nói với Tôn Giả Revata: Này Hiền Giả Revata, Tôn Giả Ananda, đã trả lời theo sự giải thích của mình.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả Revata: Này Hiền Giả Revata, khả ái thay ngôi rừng Gosinga, như trên, Này Hiền Giả Revata, hạng Tỳ Kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Ở đây, này Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Lành thay, lành thay, Sariputta!
Nếu trả lời cho được chân chánh, Revata phải trả lời như vậy. Này Sariputta, Revata ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch.
Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, con nói với Tôn Giả Anuruddha như sau: Này Hiền Giả Anuruddha, Tôn Giả Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả Anuruddha: Này Hiền Giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng Gosinga, như trên, Này Hiền Giả Anuruddha, hạng Tỳ Kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn Giả Anuruddha nói với con: Này Hiền Giả Sariputta, ở đây, Tỳ Kheo với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, quán sát ngàn Thế Giới.
Này Hiền Giả Sariputta, ví như một người có mắt, lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp rồi quán sát một ngàn đường vòng xung quanh.
Cũng vậy, này Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên quán sát ngàn Thế Giới.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Lành thay, lành thay, Sariputta!
Nếu trả lời cho được chân chánh, Anuruddha phải trả lời như vậy. Này Sariputta, chính Anuruddha với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên quán sát ngàn Thế Giới.
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, con nói với Tôn Giả Maha K Assapa: Này Hiền Giả K Assapa, Tôn Giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả K Assapaa: Khả ái thay ngôi rừng Gosinga!
Như trên.
Này Hiền Giả K Assapa, hạng Tỳ Kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn Giả Maha K Assapa nói với con: Ở đây, này Hiền Giả Sariputta, Tỳ Kheo tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi, tự mình sống khất thực và tán thán đời sống khất thực, tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y.
Tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống độc cư và tán thán hạnh độc cư, tự mình sống không nhiễm thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấn và tán thán hạnh tinh cần, tinh tấn.
Tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu thiền định và tán thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu trí tuệ, tự mình giải thoát và tán thán sự thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo ấy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Lành thay Sariputta!
Nếu trả lời cho được chân chánh, K Assapa phải trả lời như vậy. Này Sariputta, K Assapa tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi. Tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến.
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, con nói với Tôn Giả Maha Moggallana: Hiền Giả Moggallana, Tôn Giả Maha K Assapa đã trả lời theo sự giải thích của mình.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả Maha Moggallana: Này Hiền Giả Moggallana, khả ái thay khu rưng Gosinga!
Này Hiền Giả Moggallana, hạng Tỳ Kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn Giả Maha Moggallana nói với con: Ở đây, này Hiền Giả Sariputta, hai Tỳ Kheo đàm luận về Abhidhamma A Tỳ Đàm. Họ hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, họ trả lời được với nhau, chớ không dừng lại vì không trả lời được, và cuộc đàm luận về pháp của họ được tiếp tục.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Lành thay Sariputta!
Nếu trả lời cho được chân chánh, Moggallana phải trả lời như vậy. Này Sariputta, Moggallana là bậc thuyết về chánh pháp.
Ðược nói vậy, Tôn Giả Maha Moggallana bạch Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, con nói với Tôn Giả Sariputta, như sau: Hiền Giả Sariputta, chúng tôi đã trả lời theo sự giải thích của chúng tôi.
Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn Giả Sariputta: Này Hiền Giả Sariputta, khả ái thay khu rừng Gosinga!
Ðêm rằm sáng trăng, cây Ta La trổ hoa cùng khắp, hương Trời như tỏa rộng khắp nơi.
Này Hiền Giả Sariputta, hạng Tỳ Kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn Giả Sariputta nói với con: Ở đây, này Hiền Giả Moggallana, Tỳ Kheo điều phục được tâm, không phải Tỳ Kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng. An trú quả nào vị ấy an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
Hiền Giả Moggallana, ví như một vị Vua hay vị Đại Thần của Vua có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào Nhà Vua muốn mặc vào buổi sáng, Nhà Vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng.
Cặp áo nào Nhà Vua muốn mặc vào buổi trưa, Nhà Vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa. Cặp áo nào Nhà Vua muốn mặc vào buổi chiều, Nhà Vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều.
Cũng vậy, này Hiền Giả Moggallana, Tỳ Kheo điều phục được tâm, không phải Tỳ Kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào Tỳ Kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, Tỳ Kheo ấy an trú quả ấy vào buổi sáng.
An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
Này Hiền Giả Moggallana, hạng Tỳ Kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Lành thay, lành thay, Moggallana!
Nếu trả lời cho được chân chánh, Sariputta phải trả lời như vậy. Này Moggallana, Sariputta điều phục được tâm, không phải Sariputta không điều phục được tâm.
An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng.
An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
Khi được nói vậy, Tôn Giả Sariputta bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, vị nào đã khéo trả lời câu hỏi được đặt ra?
Này Sariputta, tất cả đều lần lượt khéo trả lời.
Và này các ông hãy nghe Ta nói hạng Tỳ Kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
Ở đây, này Sariputta, Tỳ Kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về, ngồi kiết già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, và nghĩ rằng: Ta sẽ không bỏ ngồi kiết già này cho đến khi tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ. Này Sariputta, hạng Tỳ Kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tôn Giả ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba