Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Mười Chín - Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ - Chuyện Hiền Giả Sonaka Tiền Thân Sonaka

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN

PHẨM SÁU MƯƠI BÀI KỆ  

CHUYỆN HIỀN GIẢ SONAKA

TIỀN THÂN SONAKA  

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người. Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc Ngài ngụ tại Kỳ Viên, về Ðại Sự Xuất thế viên mãn của Ngài.

Vào dịp này, bậc Chánh Giác ngồi ở chánh pháp đường giữa các Tỳ Kheo trong lúc Tăng Chúng đang tán thán công hạnh viên mãn của việc Ngài xuất thế, Ngài bảo: Này các Tỳ Kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã thật sự thoát tục và làm đại sự xuất thế. Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

Ngày xưa Vua Magadha Ma Kiệt Đà cai trị tại thành Rajàgaha Vương Xá. Bồ Tát sinh làm con Chánh Hậu, vào ngày đặt tên, Hoàng Gia gọi Ngài là Vương Tử Arindama. Chính ngày Ngài ra đời, một cậu trai khác cũng ra đời tại nhà vị Quốc Sư, được cha mẹ đặt tên là Sonaka.

Hai cậu bé lớn lên khi đến tuổi khôn lớn đều cực kỳ xinh đẹp lạ thường, hình dáng thật khó phân biệt nhau. Họ cùng đến Takkasilà, sau khi luyện tập xong đủ các học thuật, họ ra đi với ý định học các nghề thực dụng và xem các tập tục địa phương, dần dần đi du hành đến tận Ba La Nại.

Tại đó họ cư ngụ trong ngự viên và hôm sau đi vào Kinh Thành. Chính ngày hôm ấy, một số người dự định cúng dường thực phẩm cho các vị Bà La Môn, đem ra món cháo và sắp đặt ghế sẵn, khi trông thấy hai vị nam tử này đến gần, liền mời họ vào nhà ngồi trên các ghế đã soạn ra. Trên ghế dành cho Bồ Tát có trải tấm vải trắng, còn ghế dành cho Sonaka trải tấm thảm len đỏ.

Khi thấy điềm ấy, Sonaka hiểu ngay là ngày hôm ấy Arindama, bạn chàng sẽ lên ngôi Vua tại Ba La Nại và phong cho chàng chức đại tướng. Sau khi ăn xong, hai vị cùng trở về Ngự Viên. Lúc bấy giờ đã đến ngày thứ bảy từ khi Vua Ba La Nại băng hà, Hoàng Gia không có người kế vị.

Vì thế các quân sư cùng hoàng tộc sau khi tắm rửa đầu mình xong, tụ tập nhau lại và bảo: Các người hãy đến nhà người xứng đáng lên ngôi Vua. Họ bắt đầu đánh xe hoa ra đi. Khi rời thành, xe đi dần đến ngự viên và dừng tại cổng ngự viên, sẵn sàng đợi một người bước lên xe. Bồ Tát đang nằm nghỉ với y ngoài đắp quanh đầu, trên phiến đá dành cho Vua, trong khi nam tử Sonaka ngồi bên cạnh.

Khi nghe tiếng nhạc cụ, Sonaka nghĩ thầm: Ðây là xe hoa đến đón Arindama, hôm nay Ngài sẽ lên ngôi Vua và phong ta chức đại tướng. Song thật ra ta không muốn trị dân. Khi Ngài đi rồi, ta sẽ rời thế tục và làm Ẩn Sĩ khổ hạnh.

Thế rồi Ngài đứng ẩn mình sang một bên. Vị Quốc Sư đi vào ngự viên thấy bậc Ðại Sĩ nằm đó, liền ra lệnh thổi kèn lên. Bậc Ðại Sĩ thức dậy quay mình nằm thêm một lát rồi ngồi xếp chân trên phiến đá.

Lúc ấy vị Quốc Sư giơ tay ra cầu khẩn Ngài: Tâu Ðại Vương, Quốc Độ này thuộc quyền Ngài.

Sao thế, không có kẻ thừa kế ngai vàng ư?

Quả vậy, tâu Ðại Vương.

Thế thì được. Ngài bảo. Họ liền làm lễ quán đảnh rảy nước thánh trên đầu cho Ngài lên ngôi Vua ngay tại đó. Rồi để Ngài lên xe hoa xong, họ rước Ngài vào thành cùng đám tùy tùng rầm rộ.

Sau lễ rước Ngài thật trọng thể quanh Kinh Thành, Ngài đi lên Hoàng Cung, trong cảnh đại huy hoàng vinh quang ấy, Ngài quên bẳn người bạn trẻ Sonaka.

Nhưng khi Vua đi rồi, Sonaka trở lại ngồi trên phiến đá, và chính một ngọn lá úa của cây Sà La lìa cành rơi trước mặt Ngài, khiến Ngài trông thấy, liền kêu lên: Thân ta rồi cũng bị hư hoại như chiếc lá này!

Và khi chứng đạt được Thắng trí nhờ Ngài quán sát tính vô thường của các pháp, Ngài đắc quả vị Ðộc Giác Phật và ngay lúc ấy những đặc tính của con người thế tục trong Ngài biến mất đi, và những dấu hiệu của một bậc chân tu hiện rõ ra, Ngài bảo: Ta không còn tái sinh vào đời sau nữa. Trong khi thốt lên ý nguyện này, Ngài khởi hành tiến về hang Nandamùla.

Còn bậc Ðại Sĩ, sau bốn mươi năm trôi qua, chợt nhớ đến Sonaka và nói: Sonaka nay ở đâu trên đời này?

Dần dần mỗi khi nhớ lại thân bằng, Vua không thấy ai báo cho Ngài biết: Hạ thần có thấy vị ấy, hạ thần có nghe nói đến vị ấy.

Khi lên ngồi xếp bằng trên ngai vàng đặt trên chiếc bệ nguy nga có đám nhạc công và vũ nữ ca kịch vây quanh, tận hưởng cảnh vinh hoa phú quí ấy, Vua bảo: Bất kỳ ai nghe được có người nói Sonaka đang ở nơi này nơi nọ và báo tin cho trẫm, trẫm hứa sẽ ban tặng một trăm đồng tiền. Còn ai thấy chàng tận mắt và báo cho trẫm, trẫm hứa tặng một ngàn đồng tiền.

Rồi để làm cho lời cảm khái này được linh động thêm thành một bài ca, Ngài ngâm kệ đầu:

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người

Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,

Tặng một trăm đồng cho kẻ khác

Biết So Na ấy chút tăm hơi.

Lúc ấy một vũ nữ bắt được điệu hát từ miệng Vua, liền hát lên khúc ca ấy rồi dần dần một người khác, rồi một người nữa hát lên cho đến khi khắp cả hậu cung cho rằng đó là điệu hát được Vua ưa chuộng, nên đồng hát lên.

Dần dần dân chúng khắp thị thành đến thôn quê đều hát bài ấy và chính Vua cũng thường hát bài ấy. Sau năm mươi năm, Vua đã sinh hạ nhiều Vương Tử và Công Chúa, vị Thái Tử tên là Dighàvu.

Vào lúc ấy vị Độc Giác Phật nghĩ thầm: Vua Arindama rất nóng lòng gặp lại ta. Vậy ta muốn đi giải thích cho Ngài hiểu nỗi khổ đau của tham dục và công đức của việc xuất gia, ta sẽ chỉ cho Ngài con đường tu hành Ẩn Sĩ.

Rồi nhờ thần lực, Ngài đến đó ngay và an tọa trong ngự viên. Lúc bấy giờ một đứa bé lên bảy để tóc năm chòm, được mẹ sai đến đây vừa lượm củi khô vừa hát đi hát lại bài ấy.

Ngài Sonaka gọi cậu bé lại và hỏi: Này con, sao con cứ hát mãi bài ấy mà chẳng hề hát bài nào khác, con không biết bài nào khác hay sao?

Thưa Tôn Giả, con biết nhiều bài khác, nhưng bài này Đức Vua yêu thích lắm, vì thế con cứ hát hoài.

Thế có ai hát điệp khúc của bài này không?

Thưa Tôn Giả, không. Vậy ta muốn dạy con một điệp khúc rồi con đi về hát cho Đức Vua nghe.

Thưa vâng.

Thế là Ngài dạy câu bé điệp khúc một ngàn đồng và cả đoạn sau, đến khi cậu bé hát thật thông thạo, Ngài để cậu bé về và bảo: Này con, con hãy đi về hát điệp khúc này trước Đức Vua, Ngài sẽ ban cho con nhiều quyền thế.

Con cần gì phải lượm củi khô nữa?

Thôi hãy đi về hết sức nhanh lên. Thế thì tốt lắm.

Cậu bé đáp sau khi đã thông thạo khúc hát, liền từ tạ Tôn Giả Sonaka: Thưa Tôn Giả, xin Ngài ngồi lại đây cho đến khi con thỉnh Đức Vua đến.

Nói xong, cậu vội vàng chạy thật nhanh về gặp mẹ và bảo: Mẹ hãy tắm rửa cho con và mặc áo quần vào thật đẹp, hôm nay mẹ con ta sẽ thoát cảnh nghèo hèn.

Sau khi cậu đã tắm rửa, ăn mặc lịch sự xong, cậu đến cửa cung bảo:

Này ông lão canh cổng, xin hãy đi trình Ðại Vương biết: Có một cậu bé đến đây, đang đứng ở cửa, chuẩn bị ca một bài dâng lên Thánh Thượng. Người giữ cổng vội phi báo với Vua.

Vua triệu cậu bé vào yết kiến và bảo: Này hiền hữu muốn hát đối cùng trẫm chăng?

Tâu Ðại Vương, đúng thế. Vậy thì hát đi.

Tâu Ðại Vương, con không muốn hát ở đây, mà con muốn xin cho tiếng trống đánh lên khắp Kinh Thành báo hiệu dân chúng tụ tập tại đây, con mong muốn hát trước mặt dân chúng.

Vua ra lệnh làm như vậy, rồi ngự giữa bảo tọa dưới một ngôi đình thật lộng lẫy và dành một chỗ ngồi xứng đáng cho cậu bé, Ngài bảo: Bây giờ hãy hát đi.

Cậu bé đáp: Tâu Ðại Vương, xin Ðại Vương hát trước rồi con sẽ xin hát điệp khúc của bài đó.

Vua liền hát trước tiên vần kệ này:

 Một ngàn đồng trẫm tặng cho người

Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,

Tặng một trăm đồng cho kẻ khác

Biết So Na ấy chút tăm hơi.

Lúc ấy bậc Ðạo Sư, muốn làm sáng tỏ việc cậu bé còn để tóc năm chòm này ca điệp khúc do Vua khởi xướng.

Và với trí tuệ Tối thắng Ngài ngâm hai vần kệ:

Rồi cậu bé kia bỗng nói rằng:

Trên đầu còn để tóc năm chòm

Ngàn đồng xin tặng cho con thấy,

Và đã nghe xin tặng một trăm,

Con sẽ đưa tin Tôn Giả ấy

Bạn thân ngày trước của minh quân.

Các vần kệ sau đây, được hiểu theo tương quan diễn tiến của câu chuyện:

Ðức Vua:

Thành thị, thôn quê, Quốc Độ gì

Mà con lê mãi bước chân đi,

Thấy đâu Hiền hữu So Na ấy,

Con hãy vui lòng nói trẫm nghe?

Tiểu nhi:

Trong Quốc Độ này, chính ngự viên,

Nhiều Sà La lớn mọc đua chen

Xanh tươi cành lá, thân cao vút,

Phong cảnh đẹp sao trước mắt nhìn.

Cành lá giao nhau, kết thật dày,

Vươn lên Trời tựa các vầng mây,

So Na nằm dưới gốc, thiền định,

Ly dục, tâm an, thanh tịnh đầy.

Bậc Ðạo Sư:

Vua liền khởi sự quyết lên đàng,

Rẽ lối tiến ngay, thực vội vàng

Ðến chốn So Na ka trú ngụ,

Quẩn quanh vườn ngự rộng thênh thang,

Thân bằng, Ngài thấy đà ly dục,

Thánh hạnh an nhiên hỷ lạc tràn.

Vua không đảnh lễ Ngài, mà chỉ ngồi xuống một bên, và bởi lẽ bản thân Vua đã đắm mình vào ác dục, nên cứ tưởng vị cố bằng hữu này là một kẻ khốn khổ bần hàn lắm, liền ngâm kệ bảo bạn:

Trọc đầu, mất cả mẹ cùng cha,

Trẫm thấy người kia khoác áo dà,

Kẻ khó tu hành đang nhập định,

Trải mình đây, dưới gốc Sà La.

Nghe thế, So Na ka bảo rằng:

Chẳng là khốn khổ, tấu Vương Quân,

Kẻ nào biết rõ trong hành động

Luôn hướng về điều phải, lẽ chân.

Khốn hèn là kẻ bỏ điều chân,

Và lại thực hành chuyện bất nhân,

Với kẻ ác kia, Ngài phải biết,

Khổ đau mạt vận để dành phần.

Ngài đã khiển trách Bồ Tát như vậy, còn Vua giả vờ không biết mình bị khiển trách, cứ làm vẻ thân hữu trò chuyện cùng Ngài, nêu rõ danh tánh, gia tộc qua vần kệ:

Vua Kàsi nọ chính là ta,

Ta mệnh danh là A Rin Da,

Từ lúc đến đây, thưa Thánh Giả,

Có điều chi đáng để phiền hà?

Vị Ðộc Giác Phật liền đáp: Không chỉ khi an trú nơi đây, mà bất cứ ở nơi nào khác, ta cũng không gặp điều gì phiền phức cả.

Rồi Ngài bắt đầu ngâm kệ nêu lên các niềm phước lạc của bậc tu hành:

Một kẻ xuất gia chẳng bạc tiền,

Ðược bao phước lạc, kể đầu tiên,

Trong bình hay vựa, không tồn trừ,

Chỉ muốn vật thừa, sống thản nhiên.

Phước lạc tiếp theo, đáng tán đồng:

Vị này thọ thực chẳng sai lầm,

Thứ ba, hạnh phúc hằng ngày được

Thọ thực an vui, chẳng mếch lòng.

Phước lạc thứ tư, chốn đến đi,

Thong dong chẳng biết luyến lưu gì,

Thứ năm ví thử thành kia cháy,

Người chẳng thiệt thòi, chẳng mất chi.

Thứ sáu là điều hạnh phúc đây,

Người tu tính để phận riêng tây:

Ví dù Quốc Độ điêu tàn cả,

Người ấy chẳng hề thiệt mảy may.

Thứ bảy là điều hạnh phúc kia:

Vì chưng nghèo khó chẳng còn gì,

Dù bầy cướp chận đường vây hãm,

Cừu địch dù bao kẻ hiểm nguy,

Bình bát, hoàng y, người phạm hạnh

Bình an vẫn cứ bước chân đi.

Còn đây là hạnh phúc sau cùng:

Vị ấy lang thang khắp mọi vùng,

Không cửa không nhà, và khốn khó,

Lên đường chẳng luyến tiếc băn khoăn.

Như thế vị Ðộc Giác Phật Sonaka đã nêu lên tám phước lạc của một tu sĩ, rồi hơn thế nữa, Ngài có thể kể cả trăm cả ngàn vô lượng phước lạc, nhưng vì Vua đang tham đắm dục lạc nên vội ngắt ngang lời Ngài, bảo: Trẫm không màng các phước lạc của đời tu hành kia.

Và để làm sáng tỏ việc mình mê đắm dục lạc ra sao, Vua ngâm kệ:

Phước lạc Ngài ca, trẫm chẳng màng,

Trẫm truy tầm lạc thú trần gian

Nhân, thiên lạc, trẫm đều yêu thích

Ðạt cả hai ngay, hãy chỉ đàng.

Vị Ðộc Giác Phật liền đáp lời:

Ai cử tham lam muốn hưởng tràn

Biết bao dục lạc cõi trần gian,

Tạo nên ác nghiệp trong đời sống,

Sau phải tái sinh cõi khổ buồn.

Bỏ ái dục kia lại phía sau,

Suốt đời vô úy tiến lên mau,

Tham Thiền đạt đến tâm thanh tịnh

Chẳng phải luân hồi cõi khổ đau.

Ta nói Ðại Vương ví dụ này,

A rin da hãy lắng nghe đây:

Những người hiền trí nhờ lời dụ,

Ý nghĩa cao siêu sẽ hiểu ngay.

Trên Sông Hằng sóng thủy triều dâng

Kìa chú quạ ngu thấy cuốn phăng

Một xác vật gì to quái lạ,

Tự nhủ thầm khi nó nổi gần:

Vật kia tìm được lớn lao thay,

Ôi thật là kho thực phẩm đầy

Ðể tận hưởng bao niềm khoái

Ðây ta sẽ ở suốt đêm ngày.

 Như thế thịt voi, quạ cứ ăn,

Uống thêm nước mát tự Sông Hằng

Trong khi trôi nổi, không hề thấy

Rừng miếu thoáng qua giấc mộng vàng

Cứ vậy buông lung chú quạ trôi

Ðắm mình trên xác chết tanh hôi,

Sông Hằng cuốn chú lao đầu thẳng

Vào chốn hiểm nguy của biển khơi.

Song lúc thức ăn đã cạn đi,

Ôi, chim tội nghiệp cố bay về,

Ðông Tây, Nam, Bắc nào đâu hướng,

Chẳng thấy đất đai, biển bốn bề!

Xa giũa trùng dương, đã mệt phờ,

Trước khi chú quạ đến bên bờ,

Giữa muôn vàn hiểm nguy trên biển,

Ngã xuống, không bay nữa bấy giờ.

Nơi chú chim kia khốn khổ rơi,

Cả đàn sấu, thủy quái đang bơi

Chung quanh, vội đến và xâu xé,

Tan xác run run của quạ mồi.

Cũng vậy, Ðại Vương với những người

Tham lam tìm lạc thú kia hoài,

Tưởng mình có trí như chim quạ,

Cho đến khi lìa bỏ cuộc đời.

Ví dụ Ta Bày tỏ thật chân,

Ðại Vương hãy thận trọng quan tâm,

Danh thơm có được hay danh xấu,

Tùy thuộc hành vi của Ðại quân.

Như vậy nhờ ví dụ kia, Ngài đã khuyến giáo Vua và để cho Vua ghi nhớ mãi điều này, Ngài ngâm kệ:

Vì từ tâm nói một hai lần,

Nhắc nhở đôi lời để hộ thân,

Song chớ nhắc đi nhắc lại mãi,

Giống gia nô trước chủ nhân ông!

Với trí vô biên, bậc Ðại Nhân,

So Na Giác giả dạy Vương Quân

Vừa xong, Ngài thẳng đàng bay biến

Trong khoảng không gian rộng mịt mùng.

Ðây là vần kệ phát xuất tứ Trí tuệ Tối thắng của Đức Phật.

Bồ Tát đứng ngắm Ngài bay qua không gian trong lúc còn nhìn thấy hình bóng Ngài, song khi Ngài đã khuất dạng, Bồ Tát vô cùng xúc động nghĩ thầm: Người Bà La Môn này thuộc dòng giống thấp kém thế, mà sau khi phủi bụi bặm trên bàn chân lên đầu ta, một người xuất thân từ quý tộc được kế tục từ đời này qua đời khác, đã biến mất trong bầu Trời. Vậy hôm nay ta phải giã tứ thế gian và thành người tu khổ hạnh ngay.

Trong niềm ước mong làm Ẩn Sĩ, và rời Quốc Độ, Ngài ngâm hai vần kệ:

Các quản xa nay được lệnh ban

Ði tìm đâu được đấng minh hoàng?

Trẫm không muốn ngự trên ngai nữa,

Trẫm giã từ ngay chiếc miện vàng.

Ta chết ngày mai, ai có hay

Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,

Sợ rằng như quạ kia ngu dại,

Ác dục cuốn lôi, trẫm đọa đày.

Nghe Vua muốn thoái vị như vậy, các Quốc Sư tâu:

Ðại Vương có Thái Tử Dì Ghà

Vương Tử đẹp tươi quả thật là,

Quán đảnh suy tôn lên bảo tọa

Sẽ làm Ðại đế của triều ta.

Tiếp theo đây, khởi đầu bằng vần kệ do Vua ngâm, các câu sau tuần tự được hiểu theo diễn tiến câu chuyện:

Mau triệu Dì Ghà Vu đến đây,

Hoàng nhi này thật tốt tươi thay,

Sắc phong quán đảnh lên Vương vị,

Ấy chính là Vua Quốc Độ này.

Khi quần thần dẫn đến Digha

Chúa tể tương lai của nước nhà,

Vương phụ bảo cùng hoàng Thái Tử,

Con yêu độc nhất quả chàng là.

Phụ Vương:

Thôn làng sáu vạn ấy ngày xưa

Trẫm đã phán rằng: Chính của ta,

Hãy nhận chúng đi, này Thái Tử,

Từ nay trẫm giã biệt Sơn Hà.

Ngày mai ta chết, có ai hay?

Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,

Vì sợ ngu si như chú quạ

Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.

Kìa xem! Vương Tượng sáu mươi ngàn

Ðược điểm tô bao vẻ rỡ ràng,

Với đủ cân đai vàng chói lọi

Trang hoàng bảo vật sáng huy hoàng.

Quản tượng ngồi lên cỡi mỗi con,

Tay cầm giáo có móc câu tròn,

Nhận đi, Thái Tử, cha ban tặng

Con, kẻ lên ngôi trị nước non.

Ngày mai ta chết, có ai hay?

Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,

Vì sợ ngu si như chú quạ

Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.

Kìa xem, Vương mã sáu mươi ngàn!

Tô điểm yên cương sáng rỡ ràng,

Tuấn mã Sindh đều dòng giống quý,

Bộ binh hùng hậu cả quân đoàn.

Chúng đều mang quản mã oai hùng

Ðầy đủ trong tay với kiếm, cung,

Thái Tử nhận đi, cha tặng cả

Cho con, người ngự trị toàn dân.

Ngày mai ta chết, có ai hay?

Trẫm muốn hôm nay thọ giới

Vì sợ ngu si như chú quạ

Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.

Vương xa sáu vạn đủ yên cương,

Cờ xí tung bay ngập bốn phương

Da cọp, da beo bao phủ khắp,

Kìa xem quang cảnh thật huy hoàng!

Quản xa điều ngự, giáp bào mang,

Cung tiễn cầm tay, thảy vũ trang,

Thái Tử nhận đi, cha tặng cả

Vì con, người ngự trí giang san.

Ta chết ngày mai, ai có hay?

Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,

Sợ rằng như quạ kia ngu dại,

Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.

Sáu vạn bò tơ sắc đỏ hồng,

Cùng đàn bò đực ở bên lưng,

Nhận đi, Thái Tử, cha ban tặng

Vì chính con cai trị Quốc Dân.

Ngày mai ta chết, có ai hay?

Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,

Vì sợ ngu si như chú quạ

Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.

Sáu vạn cung phi đẹp nõn nà

Ðứng kia xiêm áo thật xa hoa,

Ðầy tay vòng ngọc, hoa tai điểm,

Cha tặng con, người trị quốc gia.

 Ta chết ngày mai, ai có hay?

Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,

Sợ rằng như quạ kia ngu dại,

Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.

Thái Tử:

Chúng bảo con: Vương Mẫu mất rồi

Ðáng thương ai tử nọ! Than ôi!

Làm sao con sống không Vương phụ,

Con đã lìa sinh thú ở đời.

Như ở sau lưng, sát với cha,

Voi con thường thấy kế voi già,

Xuyên đèo, xuyên núi hay rừng rậm,

Bằng phẳng, gồ ghề, cũng vượt qua.

Bình bát trong tay, con bước sau,

Theo cha dẫn lối bất kỳ đâu,

Cha không thấy gánh con làm nặng,

Hay phải nuôi con khó nhọc nào.

Phụ Vương:

Như thương nhân, chủ các con tàu,

Kiếm lợi dù cho với giá nào,

Thường bị cuốn trôi vào vực xoáy,

Cả thuyền, thủy thủ, thảy tiêu hao.

Sợ rằng ta gặp bước gian nan,

Con trẻ gây phiền lụy cản đàng,

Làm lễ phong Vương trong bảo điện,

Cho con hưởng lạc thú trần gian.

Cả bầy cung nữ vuốt ve chàng

Ngời chói đôi tay với ngọc vàng,

Như Ðế Thích cùng bầy thị nữ

Từ đây chàng sẽ được hân hoan.

Họ rước Di ghà, Thái Tử này

Vào cung điện, chốn lạc hoan đầy,

Vừa nhìn Vương Tử, đoàn thanh nữ

Kiều diễm, liền thưa gửi giải bày:

Chàng là ai? Nhạc sĩ, Thiên Thần,

Hay Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,

Bố thí của tiền khắp thị trấn,

Xin cho tiện thiếp biết danh xưng?

Ta không Nhạc sĩ, chẳng Thiên Thần,

Chẳng Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,

Vua xứ Kà si, ta kế vị,

Di ghà Thái Tử, ấy danh xưng,

Hãy yêu ta nhé và an lạc,

Ta sắc Vương phi đủ mọi nàng!

Rồi với Di ghà, vị chúa công,

Các nàng kiều nữ lại thưa rằng:

Thượng hoàng tìm chỗ nào an trú,

Và kể tử nay sẽ ẩn thân?

Thái Tử:

Phụ Vương đã tránh chốn bùn nhơ,

Ngài đã bình an ở đất khô,

Thoát khỏi chông gai rừng rậm rạp,

Cuối cùng Ngài đã thấy đường to.

Còn ta mới cất bước lên đường

Dẫn đến nơi đầy rẫy khổ buồn,

Qua đám chông gai, rừng rậm rạp

Tiến lên tìm số phận kinh hoàng.

Cung phi:

Cung nghênh Thánh Thượng đến Hoàng Cung,

Như hổ tìm con ở động hang,

Thánh Thượng từ đây lên ngự trị,

Chánh chân thừa kế chiếc ngai vàng.

Nói xong cả đoàn cung nữ cùng đánh nhạc cụ vang lừng và biểu diễn đủ loại ca múa, cảnh vinh quang huy hoàng tuyệt diệu đến độ Thái Tử say mê quên hết mọi sự về Phụ Vương.

Nhưng sau đó chàng cai trị đúng chánh pháp, rồi đi theo nghiệp của mình. Còn Bồ Tát tu tập thiền định làm phát khởi thắng trí và khi mạng chung, Ngài sinh lên Cõi Phạm Thiên.

Bậc Ðạo Sư chấm dứt pháp thoại và bảo: Này các Tỳ Kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả ngày xưa nữa, Như Lai cũng đã làm đại sự xuất thế.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân: Vào thời ấy, vị Ðộc Giác Phật chứng đắc Niết Bàn, Vương Tử là Ràhula La Hầu La và Vua Arindama chính là ta.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần