Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Mười Một - Phẩm Mười một Bài Kệ - Chuyện Ngụm Nước Uống Tiền Thân Paniya

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG MƯỜI MỘT  

PHẨM MƯỜI MỘT BÀI KỆ  

CHUYỆN NGỤM NƯỚC UỐNG

TIỀN THÂN PANIYA  

Ngụm nước kia còn là của bạn mình. Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự điều phục các ác dục. Ta biết rằng có một thời, năm trăm dân chúng thành Xá Vệ là gia chủ cùng thân hữu của Đức Như Lai đã đi nghe pháp và xuất gia thọ giới Tỳ Kheo.

Trong khi sống ở Tinh Xá trên con Ðường lát vàng kia, vào ban đêm các vị chìm đắm trong dục tưởng các chi tiết cũng được biết như trong chuyện trước. Theo lệnh của Đức Thế Tôn, Tôn Giả Ànanda liền tập họp Tăng Chúng lại.

Bậc Ðạo Sư ngồi xuống ở chỗ đã được soạn sẵn và không cần hỏi Tăng Chúng: Có phải các ông chìm đắm trong dục tưởng chăng?

Mà Ngài dạy bảo Tăng Chúng bằng những lời tổng quát: Này các Tỳ Kheo, không có việc gì được xem là lỗi lầm nhỏ nhặt cả. Một Tỳ Kheo phải chế ngự tất cả các dục mỗi khi chúng khởi lên. Các bậc Trí nhân thuở xưa, trước khi Đức Phật ra đời, đã biết điều phục ác dục và đạt đến trí tuệ của một vị Ðộc Giác Phật.

Cùng với lời dạy này, Ngài kể cho Tăng Chúng nghe một chuyện quá khứ. Một thời, khi Vua Brahmadatta trị vì thành Ba La Nại, có hai người bạn trong một làng kia ở Quốc Độ Kàsi. Hai người ấy, ra đồng mang theo hai bình nước uống, họ đặt khuất bên đường trong lúc cuốc đất, mỗi khi khát nước lại đến đó uống.

Một trong hai người ấy, khi uống nước, đã để dành nước trong bình của mình và uống nước trong bình kẻ kia.

Buổi chiều khi ra khỏi rừng tắm rửa xong, kẻ ấy đứng suy nghĩ: Ta có phạm lỗi gì hôm nay, hoặc do thân căn, hoặc do căn nào khác chăng?

Lúc đó, ông nhớ lại đã uống ngụm nước trộm như thế nào, và buồn phiền kêu lên: Nếu sự thèm khát này khởi lên trong ta, nó sẽ khiến ta phải tái sinh vào cõi dữ. Vậy ta quyết nhiếp phục lỗi lầm. Vì vậy do chuyện uống ngụm nước trộm này mà ông dần dần đạt được thiền định và chứng đắc thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật Pacceka Buddha và ông đứng đấy suy nghĩ về thắng trí của mình vừa đạt được.

Bấy giờ người kia sau khi tắm xong bảo: Này Hiền hữu, về nhà đi.

Ông đáp: Hiền hữu về nhà đi, nhà cửa chẳng có ý nghĩa gì đối với ta nữa!

Ta là một vị Ðộc Giác Phật đây!

Ô kìa, Ðộc Giác Phật giống như Hiền hữu ư?

Thế thì các vị ấy ra sao?

Các vị ấy có tóc dài cỡ hai ngón tay, đắp y vàng, sống ở động Nandamùla tận trên vùng Tuyết Sơn.

Người kia vỗ vào đầu.

Ngay lập tức các dấu vết của một người thế tục biến mất, một cặp y đỏ đắp quanh mình vị ấy, một dây đai màu vàng như lằn chớp cột quanh thắt lưng, tấm thượng y màu son đỏ vắt qua một bên vai, một y phấn tảo màu đen sẫm như đám mây Trời bão nằm vắt qua một vai kia, một bình bát bằng đất màu vàng nâu treo lủng lẳng trên vai tả, ông đứng vững trên không, sau khi thuyết pháp xong liền bay lên cao và không hề hạ xuống, cho đến khi bay tận hang núi Nandamùla.

Một người khác cũng sống trong một làng ở Kàsi, là một địa chủ, đang ngồi trong tiệm tạp hóa thì thấy một người nọ dẫn vợ đi tới. Vừa thấy nàng là một mỹ nhân dung sắc tuyệt thế, người kia lỡ phá giới đức và liếc nhìn nàng.

Sau đó ông suy nghĩ: Nếu tham dục này tăng trưởng, nó sẽ khiến ta đọa vào cõi ác thú. Ông vừa tu tập tâm vừa làm phát khởi thiền định và đạt thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không và thuyết pháp, về sau cũng bay đến động Nandamùla. Lại có hai cha con là dân làng Kàsi, cùng du hành với nhau. Tại lối đi vào rừng có nhiều kẻ cướp trú ẩn.

Những quân cướp này, nếu bắt được cả hai cha con, thì sẽ giữ người con lại và bắt người cha đi về, bảo: Hãy đem tiền đến chuộc con trai ông. Hoặc nếu là hai anh em, chúng sẽ giữ người em lại và bắt người anh đi về, nếu là hai thầy trò, chúng giữ ông thầy lại và bắt học trò đi về, người học trò muốn học hành sẽ đem tiền đến và chúng sẽ thả ông thầy.

Lúc bấy giờ, khi hai cha con này thấy bọn cướp đang nằm chờ, người cha bảo: Con đừng gọi ta là cha, ta cũng không gọi con là con đấy.

Hai người đồng ý như vậy, nên khi quân cướp đi đến, chúng hỏi hai người là gì đối với nhau, hai người đáp: Chúng ta chẳng là gì đối với nhau cả. Rồi họ nói dối một điều đã nghĩ sẵn từ trước.

Khi hai người ra khỏi rừng và nghỉ ngơi sau khi đã tắm rửa buổi tối xong, người con xem xét lại đức hạnh của mình và nhớ lời nói dối kia, nghĩ thầm: Lỗi lầm này nếu tăng trưởng sẽ nhận chìm ta vào cõi ác. Ta quyết khắc phục lỗi lầm. Sau đó người ấy tu tập thiền định, và đạt thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không và thuyết pháp cho cha, xong cũng đi về hang Nandamùla. Trong một làng ở Kàsi cũng có một địa chủ ra lệnh cấm sát sinh.

Bấy giờ đến lúc người ta thường dâng lễ tế thần, một đám đông tụ tập lại và nói: Thưa chủ nhân, đây là lúc tế lễ, xin cho chúng tôi giết dê, lợn và những súc vật khác để dâng lễ cúng Thần linh.

Ông bảo: Cứ làm như các anh đã làm trước kia. Dân làng liền làm một việc đại sát sinh.

Khi người ấy thấy một số lớn cá thịt, liền suy nghĩ: Người ta đã giết hết các sinh vật này, tất cả cũng chỉ vì lời nói của ta mà thôi!

Ông ăn năn hối hận, và khi đứng bên cửa sổ, ông tu tập thiền định và đạt thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không Thuyết Pháp xong, cũng đi về hang Nandamùla. Một người địa chủ khác sống ở Quốc Độ Kàsi, cấm bán rượu mạnh.

Một đám đông đến kêu gào: Thưa chủ nhân, chúng tôi phải làm sao?

Ðây là tửu hội được yêu chuộng lâu đời rồi mà!

Người ấy đáp: Cứ làm như các anh vẫn làm trước kia. Dân chúng tổ chức đại hội, uống rượu mạnh và gây sự lẫn nhau, kẻ gãy tay chân, người vỡ đầu sứt tai và phải chịu nhiều hình phạt về chuyện này.

Người địa chủ thấy vậy, nghĩ thầm: Nếu ta không cho phép chuyện này, thì dân chúng đã không phải chịu khổ sở như vậy. Ông cảm thấy ăn năn dù chỉ một việc nhỏ nhặt kia. Sau đó ông tu tập thiền định, và đạt thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, đứng trên không Thuyết Pháp, khuyên bảo dân chúng phải tỉnh giác, rồi ông cũng đi đến hang Nandamùla.

Một thời gian sau, năm vị Ðộc Giác Phật đều giáng lâm tại cổng thành Ba La Nại, để tìm đồ ăn bố thí.

Thượng y và hạ y của các Ngài đều được đắp gọn ghẽ, với phong thái ung dung thanh thoát, các Ngài đi khất thực đến tận cung môn của Vua.

Rất hoan hỷ khi ngắm các vị ấy, Ngài rước các vị ấy vào cung, rửa chân các vị và xoa dầu thơm, dâng lên các vị đủ món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, rồi Ngài ngồi xuống một bên, và nói với các vị như sau: Thưa các Tôn Giả, các Ngài đang còn thanh xuân mà đã sống đời tu hành, thật vi diệu biết bao!

Ở tuổi này các Ngài đã là ẩn sĩ, và các Ngài đã nhìn thấy nỗi khổ đau của ác dục.

Nguyên nhân nào đã đưa đến hành động của các Ngài?

Các Ngài đáp lại:

Ngụm nước kia là của bạn mình,

Ta đà uống trộm, dẫu thân tình,

Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,

Phát nguyện về sau sẽ trở thành

Ẩn sĩ, giã từ đời thế tục,

Vì e tái phạm tội phần mình.

Vợ của người kia, lỡ liếc nhìn,

Trong lòng ta dục vọng bừng lên,

Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,

Ta quyết về sau tự phát nguyền

Từ giã thế gian làm Ẩn Sĩ,

Vì e tái phạm lỗi lầm trên.

 Trộm cướp trong rừng bắt phụ thân,

Ta đành nói với bọn kia rằng:

Người này chẳng phải là thân phụ,

Ta biết ngay là nói dối gian,

Chán ghét lỗi lầm ta phạm phải,

Về sau ta ước nguyện tu thân như trên

Người làm tửu hội sát sinh linh,

Chẳng phải là không thuận ý mình,

Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm

Về sau ta đã phát tâm thành như trên

Cả bọn người kia một thuở xưa,

Cùng nhau chè chén thật say sưa,

Ðánh nhau gây sự nhiều người khổ,

Chẳng phải là không thuận ý ta.

Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm,

Về sau ta ước nguyện ly gia,

Giã từ thế tục, làm Tu Sĩ,

Vị sợ ta còn phạm lỗi xưa.

Các Ngài ngâm lần lượt các vần kệ trên.

Khi Vua đã nghe xong lời giải thích của mỗi vị Phật, Ngài nói lời tán thán: Thưa các Tôn giả, việc tu hành của các Ngài thật xứng đáng lắm thay. Vua rất hoan hỷ về bài thuyết pháp của các vị này. Ngài ban tặng các y trong, y ngoài cho các vị, cùng thuốc men xong xuôi, liền để các vị Ðộc Giác Phật ra đi. Các vị ấy cảm tạ Ngài rồi trở về nơi đã xuất hành.

Sau đó Vua sinh chán ghét các dục lạc, Ngài ly tham, Ngài vẫn dùng các món cao lương mỹ vị, song Ngài không nói chuyện với bọn cung nhân, cũng không nhìn đến chúng. Nhàm chán khởi lên trong tâm, Ngài lui về cung thất nguy nga của Ngài ngồi đó nhìn thẳng vào bức tường trắng trước mặt cho đến khi Ngài nhập thiền định, cảm nhận trong tâm Ngài lạc thọ của thiền định.

Mải mê trong nỗi hân hoan, Ngài ngâm kệ chê bai tham dục:

Ta quyết ly tham, diệt dục tham,

Bốn bề vô vị, tựa gai đâm!

Chẳng bao giờ nữa, dù từ trước

Ta đã đi theo chuyện lỗi lầm,

Lạc thú như vậy ta đã gặp,

Ðây là lạc thú của tham tâm.

Lúc ấy bà chánh hậu của Ngài suy nghĩ thầm: Ðức Vua đã nghe lời thuyết pháp của các vị Ðộc Giác Phật, và nay Ngài tự giam mình với nỗi chán chường trong cung điện thật nguy nga của Ngài. Ta phải chăm sóc Ngài mới được.

Vì thế bà đến cửa cung thất của Vua, và đứng ở cửa, nghe rõ những lời cảm hứng đầy hoan lạc của Ngài tỏ ý chê bai tham dục, bà bảo: Tâu Hoàng Thượng, Ngài vừa chê bai tham dục! Song chẳng có lạc thú nào bằng lạc thú của tham dục êm ái cả.

Sau đó, để tán thán tham dục, bà ngâm một vần kệ khác:

Cựu Lạc dịu êm thật khó lường,

Thú nào hơn được thú yêu thương,

Ai theo lạc thú này sau đạt

Hạnh phúc trên cao cõi ngọc đường!

Nghe vậy Vua đáp: Này ác nữ nhân!

Thật quái lạ, bà nói gì thế?

Dục lạc phát xuất từ đâu đấy?

Có nhiều khổ đau tiếp theo sau để trả giá cho dục lạc.

Cùng với các lời này, Ngài ngâm các vần kệ cuối để tỏ lòng chê bai tham dục:

Tham dục hôi tanh, thật đáng nhờm,

Chẳng còn khổ não khốc tàn hơn,

Ai theo ác dục này sau phải

Gặt lấy sầu bị địa ngục môn.

Thèm muốn khát khao mãi chẳng nguôi,

Còn hơn kiếm sắc khéo tay mài,

Hơn dao đâm suốt vào lồng ngực,

Tham dục càng nên phỉ nhổ hoài.

Hố kia sâu đến cỡ thân người,

Than củi kia đang cháy đỏ tươi,

Cái lưỡi cày nung ngoài nắng gắt,

Dục tham còn độc hại hơn thôi.

Thuốc độc nào tàn hại tối đa,

Dầu nào nguy hiểm với thân ta,

Rỉ nào bám chặt đồng hư hoại,

Tham dục còn hơn chúng nữa mà.

Bậc Ðại Sĩ đã thuyết pháp cho bà Chánh Hậu như vậy.

Sau đó Ngài tập họp triều thần lại và phán: Này các khanh, các khanh hãy cai trị Vương Quốc. Ta sắp từ giã thế tục. Và ngay giữa tiếng khóc lóc kêu gào của quần chúng, Ngài vụt lên cao, vừa đứng vững trên không, vừa thuyết pháp.

Rồi theo hướng gió Ngài bay đến vùng Tuyết Sơn cao xa nhất, ở một nơi đầy an lạc, Ngài dựng một am thất, tại đấy Ngài sống đời của một Bậc Hiền Trí cho đến mạng chung, Ngài được sinh lên Cõi Phạm Thiên.

Sau khi chấm dứt pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nói thêm: Này các Tỳ Kheo, không có gì gọi là lỗi lầm nhỏ mọn cả, ngay đến những lỗi nhỏ nhất cũng phải được người trí điều phục. Rồi Ngài tuyên thuyết các sự thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc bài giảng, năm trăm vị Tỳ Kheo đã được an trú vào Thánh Quả A La Hán.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân: Vào thời ấy các vị Ðộc Giác Phật đắc Niết Bàn, mẹ của Ràhulà La Hầu La là bà chánh hậu và ta là vị Vua kia.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần