Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Sáu - Thiên Cung Sự - Phẩm Một - Phẩm Lâu đài Nữ Giới - Phần Tám - Lâu ðài Có Chiếc Thuyền Số Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP SÁU
THIÊN CUNG SỰ
PHẨM MỘT
PHẨM LÂU ĐÀI NỮ GIỚI
PHẦN TÁM
LÂU ÐÀI CÓ CHIẾC THUYỀN SỐ BA
Trong lúc Đức Thế Tôn du hành quanh thị trấn với hội chúng Tỳ Kheo đông đảo, Ngài đến một ngôi làng Bà La Môn tên là Thù Na ở Quốc Độ Kosala.
Các gia chủ Bà La Môn ở Thù Na nghe tin: Người ta nói rằng Sa Môn Gotama đã đến tại cánh đồng làng ta.
Bây giờ các gia chủ Bà La Môn là ngoại đạo có tà kiến, bản tính keo kiệt, bảo nhau: Nếu Sa Môn Gotama vào làng này và ở lại độ hai ba ngày, vị ấy sẽ an trú tất cả dân làng này vào giáo pháp của vị ấy. Khi ấy giáo lý Bà La Môn sẽ không có nơi nương tựa.
Và cố ngăn cản Đức Thế Tôn dừng chân tại đấy, họ đưa thuyền bè ra khỏi bến đậu và làm cho cầu cống trở thành vô dụng. Họ lấp kín các giếng nước trừ một giếng cũ đầy cỏ rác và che giấu các mạch nước, nhà nghỉ và lầu trọ. Chuyện được kể trong Kinh Udàna Cảm Hứng Ngữ như vậy ở phẩm bảy.
Ðức Thế Tôn biết được ác nghiệp của họ và sinh lòng thương xót họ, bèn du hành giữa không gian cùng Chư Tỳ Kheo vượt qua sông, rồi tiếp tục đi đến làng Bà La Môn Thù Na. Ngài rời đường cái và ngồi xuống một gốc cây.
Vào lúc ấy, một số nữ nhân đi ngang và xách nước gần Đức Thế Tôn, trong lòng đã có sự giao ước: Nếu Sa Môn Gotama đến đây, không được ai tiếp đón vị ấy, và khi vị ấy đến nhà nào thì không ai được đem thực phẩm cho vị ấy hoặc đệ tử của vị ấy cả.
Rồi một nữ tỳ của một gia chủ Bà La Môn đi đến với một ghè nước, thấy Đức Thế Tôn được một hội chúng Tỳ Kheo vây quanh, nhận ra rằng chư vị đều khát nước và mệt mỏi. Với lòng đầy tín thành, nàng muốn đem nước cúng dường chư vị.
Nàng tự nhủ: Cho dù dân chúng làng này đã quyết định không được cho Sa Môn Gotama thứ gì cả, thậm chí cũng không được đảnh lễ cung kính, tuy nhiên, nếu khi ta đã tìm ra các phước điền vô thượng, xứng đáng được cúng dường này, ta lại không làm nơi nương tựa cho ta bằng cách chỉ đem nước cúng dường mà thôi, thì biết bao giờ ta mới được giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ trong đời sau?
Ta hãy vui lòng để chủ ta và mọi người trong làng này đập ta, trói ta, ta vẫn quyết cúng dường nước cho phước điền như thế.
Khi nàng đã quyết tâm như vậy, mặc dù các nữ nhân khác đang xách nước cố ngăn cản nàng, nàng vẫn không quan tâm đến tính mạng mình, nhấc ghè nước trên đầu xuống, đặt sang một bên, đến gần Đức Thế Tôn với lòng đầy hân hoan, hạnh phúc, nàng đảnh lễ với năm phần thân thể sát đất, và dâng nước lên Ngài.
Ðức Thế Tôn nhận ra tín tâm của nàng, và để ban đặc ân cho nàng. Ngài rửa tay chân và uống nước mát. Nước trong bình không giảm xuống.
Cô gái thấy vậy càng tăng tín tâm, đem nước đến lần lượt cho mỗi vị Tỳ Kheo, rồi cho tất cả chư vị. Nước cũng vẫn không giảm bớt. Lòng đầy hân hoan phấn khởi, với bình nước vẫn đầy như bao giờ, nàng trở về nhà.
Gia chủ Bà La Môn của nàng nghe tin nàng đem cho nước uống. Nó đã phá luật lệ của làng này và ta sẽ bị chê cười, ông bảo. Lòng nổi cơn giận bừng bừng sôi sục, ông ném nàng xuống đất đấm đá túi bụi.
Vì bị trận đòn tàn nhẫn ấy, nàng qua đời, được tái sanh vào Cõi Trời Ba Mươi Ba và một lâu đài xuất hiện cho nàng như được tả trong chuyện lâu đài có chiếc thuyền thứ nhất.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda: Này Ananda, hãy đem nước giếng cho ta.
Vị Trưởng Lão đáp: Bạch Thế Tôn, giếng ở đây đã bị dân chúng Thù Na làm ô nhiễm. Con không thể lấy nước được. Nhưng Đức Thế Tôn ra lệnh cho vị này lần thứ hai, lần thứ ba, vị Trưởng Lão cầm bình bát của Đức Thế Tôn và đi về phía giếng.
Khi vị ấy đến, nước giếng đã dâng đầy lên cao, tràn khỏi miệng, và chảy ra mọi phía. Mọi thứ rác rến trồi lên mặt nước và chảy đi sạch.
Vì nước dâng lên, các mạch nước khác cũng tràn đầy, nên làng này bị nước vây quanh, và vùng đất quanh làng bị chìm ngập.
Các Bà La Môn thấy việc hi hữu, lòng đầy kinh ngạc lẫn kỳ thú, họ đến xin Đức Thế Tôn tha lỗi. Lập tức nước lụt biến mất dần.
Dân chúng liền cung cấp chỗ ở lên Đức Thế Tôn và Chư Tăng, thỉnh cầu chư vị ngày mai và ngày kế tiếp đi đến thọ trai. Sau khi đã chuẩn bị đại lễ cúng dường, họ dâng cao lương mỹ vị đủ loại cứng và mềm lên Chư Tăng với Đức Phật là vị Thượng Thủ.
Khi Đức Thế Tôn đã thọ thực xong, và cất tay ra khỏi bình bát, toàn thể dân chúng Thù na đều ngồi đảnh lễ cung kính quanh Ngài.
Ngay lúc ấy, Vị Thiên Nữ quán sát thành tựu của nàng và nhận ra nguyên nhân chính là việc nàng cúng dường nước uống.
Lòng đầy hoan hỷ, nàng nói: Tốt lắm, nay ta muốn đảnh lễ Đức Thế Tôn, ta muốn tuyên bố cho Thế Giới loài Người biết thành quả to lớn của các thiện nghiệp, thậm chí rất nhỏ nhặt, được thực hành cho những người theo đúng chánh đạo.
Với nhiệt tâm tràn trề, cùng đoàn tùy tùng một ngàn Tiên Nữ hộ tống trong lạc viên của nàng có cả tòa lâu đài kia, nàng xuất hiện với đại oai thần của Thiên Giới trước sự chứng kiến của toàn thể dân chúng. Nàng bước xuống khỏi lâu đài, đến gần Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng trong dáng điệu cung kính.
Sau đó Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ kết quả công đức của nàng cho đám quần chúng trước mặt Ngài, bèn hỏi nàng qua các vần kệ:
Tiên nương đang đứng ở trong thuyền
Có mái vàng che phủ phía trên,
Nàng bước xuống hồ sen ngắt hái
Một hoa sen với cánh tay Tiên.
Trùng các là nơi nàng trú thân,
Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
Khéo xây ngăn nắp và cân xứng,
Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
Vì sao nàng được sắc như vậy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú gì nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
Hỡi nàng Thiên Nữ đại oai thần,
Nàng tạo Đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.
Nàng Thiên Nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Ðức Phật toàn giác hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
Khi được làm người giữa thế nhân,
Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
Con thấy Chư Tăng đang khát nước,
Quyết lòng, con kéo nước lên dâng.
Quả thật ai đầy đủ nhiệt tâm,
Ðem dâng nước uống đến Chư Tăng
Khát nhiều, mỏi mệt, ngày sau được
Suối mát đầy sen nở trắng ngần.
Bên mình nước mát với đôi bờ
Cát trắng viền luôn chảy lững lờ,
Ðầy đủ sà la, xoài, ngọc quế,
Kèn, đào, Tilak nở muôn hoa.
Phong cảnh càng tăng vẻ mỹ quang,
Lâu đài rực sáng tuyệt trần gian,
Ðây là kết quả hành vi ấy,
Ai tạo phước lành hưởng lạc an.
Trùng các là nơi con trú thân,
Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
Khéo xây ngắn nắp và cân xứng,
Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
Nhờ đấy, nay con có lực thần,
Dung quang sáng chói khắp mười phương,
Ðây là kết quả phần công hạnh
Ðem nước dâng Đức Phật cúng dường.
Sau đó Đức Thế Tôn thuyết pháp và giảng bốn Thánh Đế. Khi pháp thoại chấm dứt, vị Thiên Nữ được an trú vào Sơ Quả Dự Lưu.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Mười Một - Phẩm Sa Môn - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Nhân Duyên Của Vua đảnh Sinh - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Minh độ Kinh đạo Hành Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Mười Hai - Phẩm Thí Dụ
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Dã Hồ - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Năm Mươi Ba - Phẩm Khéo Học - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Tám Mươi