Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Hai - Phẩm Hai Kệ - Phẩm Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP TÁM

TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ  

CHƯƠNG HAI

PHẨM HAI KỆ  

PHẨM MỘT  

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Ràjagaha Vương Xá, con một Bà La Môn có danh tiếng, được đặt tên là Uttara.

Ngài thông suốt giáo điển Vệ Đà, và có danh tiếng về gia tộc, về dung sắc, về thông minh, về đức hạnh. Vassakàra, một vị bộ trưởng có danh ở Magadha Ma Kiệt Đà, thấy những thành tích của Ngài, muốn gả con gái cho Ngài, nhưng Ngài đã thiên về hạnh giải thoát nên đã từ chối và Ngài đến nghe Ngài Sàriputta Xá Lợi Phất thuyết giảng.

Với lòng tin, Ngài xuất gia, làm tròn bổn phận của người Sa Di, hầu hạ Tôn giả Sàriputta.

Một hôm, Tôn giả Sàriputta bị bệnh, Uttara đi tìm một y sĩ chữa bệnh, Ngài đặt bình bát Ngài trên bờ hồ để xuống hồ nước súc miệng.

Một người ăn trộm, bị lính đuổi, chạy ra khỏi cửa thành, khi chạy ngang liền quăng bỏ các châu báu đánh cắp vào trong bình bát của người Sa Di và bỏ chạy.

Khi các người lính đến, thấy đồ châu báu trong bình bát của Ngài liền bắt Ngài đưa đến Bà La Môn Vassakàra để trừng phạt Ngài.

Ðức Phật nhận thấy thiền quán của Ngài đã chín muồi, nên đi đến Ngài, đặt nhẹ tay trên đầu Ngài và nói: Ðây là kết quả nghiệp trước của thầy, thầy cần phải chấp nhận nhờ sức mạnh suy tư.

Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho Ngài, Uttara vì nhờ Đức Phật đặt nhẹ tay trên đầu, tâm tư được phấn khởi, nhờ thiền quán chín muồi, nhờ uy nghi đức độ của bậc Ðạo Sư, Ngài cảm thọ hỷ lạc, đoạn tận các uế nhiễm, chứng sáu thắng trí. Vươn mình lên khỏi cột trụ, Ngài đứng trên hư không, hiển hiện thần thông vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác.

Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, các vết thương của Ngài được lành hẳn khi được các Tỳ Kheo khác hỏi: Thưa Hiền giả, làm sao khi Hiền Giả đau khổ như vậy, Hiền Giả có thể phát triển thiền quán?

Ngài trả lời: Khi tôi thấy rõ được sự đau khổ của mình tái sanh, và tánh nhân duyên sanh của sự vật, thời sự nguy hiểm của sự đau khổ ít hơn, hiện tại không ngăn tôi phát triển thiền quán và chứng được kết quả.

Không có gì có mặt,

Lại thường còn mãi mãi,

Không có các hành gì,

Lại thường hằng thường trú.

Các uẩn được khởi lên,

Ðến đời khác diệt vong.

Biết được nguy hiểm này,

Ta không muốn sanh hữu,

Từ bỏ tất cả dục,

Ta chứng lậu hoặc tận.

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh làm con của vị giáo sĩ của Vua Udena xứ Kosambi, được đặt tên là Bhàradvàja. Sau khi học tập ba tập Vệ Đà, dạy các Bài Chú, bài tụng rất thành công cho các thanh niên Bà La Môn, Ngài chán ngấy với công việc đang làm.

Từ giã họ, Ngài đi đến Ràjagaha Vương Xá, thấy chúng Tỳ Kheo được trọng vọng cúng dường, Ngài xuất gia. Với phương pháp Phật dạy, Ngài tiết độ trong ăn uống và chứng được sáu thắng trí.

Ngài tuyên bố trước mặt Đức Bổn Sư rằng Ngài sẵn sàng trả lời tất cả những câu hỏi của Tỳ Kheo nào nghi ngờ đến con đường và kết quả, như vậy, Ngài rống tiếng rống con sư tử, Đức Phật nói về Ngài như sau: Trong các đệ tử của Ta rống tiếng rống con sư tử, Pindola Bhàradvàja là đệ nhất. Rồi một người bạn cũ đến thăm Ngài, một Bà La Môn có tánh keo kiết. Vị Trưởng Lão khuyên bạn nên cúng dường chúng Tăng.

Vì bạn Ngài tin rằng Ngài cũng ích kỷ và nghĩ đến tư lợi, nên Ngài dùng bài Kệ để giáo giới bạn Ngài:

Nói về đời sống này,

Không phải không có luật,

Nhưng các món đồ ăn,

Không có gì gần tâm

Do có các món ăn,

Thân thể được tồn tại,

Thấy vậy, ta bộ hành,

Tìm kiếm các món ăn.

Bậc trí kinh nghiệm rằng:

Thật sự là đám bùn,

Ðảnh lễ và cúng dường,

Xuất phát tự gia đình,

Như mũi tên tế nhị,

Rất khó nhổ được ra,

Cũng vậy với kẻ ngu,

Cung kính khó từ bỏ.

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi Xá Vệ, con một Bà La Môn tên tuổi, được đặt tên là Valliya. Khi đến tuổi trưởng thành, làm chủ được các căn, Ngài làm bạn với người có giới đức. Rồi Ngài đi đến Thế Tôn, khởi lòng tin, xuất gia, phát triển thiền quán, chứng quả A La Hán.

Nghĩ đến quá khứ với các sự vật thế tục, ham muốn, và như thế nào nhờ Thánh đạo, Ngài thoát ly các chi phối ấy, Ngài nói lên chánh trí của Ngài:

 Trong chòi nhỏ, năm cửa,

Có con khỉ đi vào,

Loanh quanh từng cửa một,

Nó va chạm từng giây!

 Này khỉ, hãy dừng lại!

Chớ có chạy như vậy,

Ngươi không còn như trước,

Trí tuệ cầm giữ ngươi,

Ngươi đâu còn có thể,

Ði xa như trước được.

Trong thời Đức Phật tại thế, Ngài sanh ở Sàvatthi làm con một thị dân, được đặt tên là Datta. Trong đời sống thế tục, vì ngu si Ngài phạm lỗi lầm, biết được lỗi lầm của mình, Ngài sanh sầu khổ và xuất gia.

Hối hận vì hành vi của mình, Ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ Sông Hằng, làm một chòi lá để ở. Do vậy, Ngài được gọi là Gangàtiriya người ở trên bờ Sông Hằng. Ngài nguyện không nói với một ai, như vậy cả năm, Ngài không thốt ra một lời nào.

Trong năm thứ hai, một nữ nhân trong làng thường cúng dường Ngài, muốn biết Ngài có câm hay không khi dâng sữa cúng dường, làm đổ sữa ra ngoài.

Ngài mới nói: Thôi vừa rồi, bà chị.

Nhưng đến năm thứ ba, Ngài chứng quả A La Hán, Ngài nói lên chánh trí của Ngài ngang qua lời bài kệ, tán thán hạnh cũ của Ngài:

Trên bờ Sông Hằng Hà,

Dùng ba lá thốt nốt,

Ta dựng lên cho ta

Một chòi lá nho nhỏ,

Bát ta là cái ghè,

Dùng cúng sữa người chết,

Còn y áo của ta

Lượm chắp từ đống rác.

 Suốt hai năm sống vậy.

Ta chỉ nói một chữ,

Trong khoảng năm thứ ba,

Khối si ám tan tành.

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một Bà La Môn nghèo, và khi sanh Ngài được đặt trong một tấm da dê rừng, do vậy được đặt tên là Ajina. Sống trong sự bần cùng, Ngài chứng kiến uy nghi đức độ của Đức Phật khi Tinh Xá Kỳ Viên được dâng cúng.

Khởi lòng tin, Ngài xuất gia và không bao lâu, chứng được Pháp Thượng Nhân, khi chứng được quả A La Hán, vì nghiệp duyên quá khứ, Ngài không được cung kính và biết đến.

Một số Sa Di không biết khinh thường Ngài, Ngài làm họ dao động với bài kệ:

Nếu chứng được Ba minh,

Ðoạn tử, không lậu hoặc,

Vị ấy vẫn có thể,

Không được người biết đến,

Và kẻ ngu không biết,

Có thể sanh khinh thường.

Khi người ấy nhận được

Ðồ ăn uống cúng dường,

Dẫu cho có ác pháp,

Vẫn được họ kính trọng.

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Benares Ba La Nại, trong gia đình một hoàng tộc, tên là Melajina, học giỏi và hạnh đức có tiếng khắp trong nước. Khi Thế Tôn ở Ba La Nại, tại Isipatana Chư Tiên đọa xứ, Melajina đến nghe Ngài thuyết pháp, khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A La Hán.

Khi các Tỳ Kheo hỏi làm sao Ngài chứng được pháp thượng nhân, Ngài rống lên tiếng rống con sư tử:

Khi ta nghe chánh pháp,

Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,

Ta thắng tri nghi hoặc,

Bậc toàn trí, toàn thắng.

 Ðối vị trưởng lữ đoàn,

Với vị đại anh hùng,

Trong các bậc đánh xe

Bậc tối thắng Vô Thượng,

Ðối con đường, lộ trình

Ta không có nghi hoặc.

Trong thời Đức Phật tại thế, Ngài sanh ở Ràjagaha Vuơng Xá, là người Bà La Môn. Trong khi Ngài lớn tuổi, Ngài không làm được bổn phận của Ngài.

Không được chấp nhận, Ngài đi đến Thế Tôn, nói lên những ước muốn của Ngài. Bậc Ðạo Sư thấy được những điều kiện căn bản được đầy đủ, nên bảo Sàriputta chấp nhận Ngài xuất gia.

Không bao lâu, Ngài chứng quả A La Hán. Sau đó, Ngài sống gần bên bậc Ðạo Sư, trở thành một vị thuyết giảng đột xuất nhờ những lời thuyết giảng của bậc Ðạo Sư.

Một hôm, thấy rõ vì sao không khéo tự huấn luyện chế ngự khiến các dục vọng có thể sanh khởi, Ngài nói lên bài kệ để khích lệ giáo giới:

Như mái nhà vụng lợp,

Mưa dễ thấm ướt vào,

Cũng vậy, tâm vụng tu

Tham ái được xâm nhập.

 Như mái nhà khéo lợp

Mưa không thể thấm vào,

Cũng vậy, tâm khéo tu

Tham ái không xâm nhập.

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh làm em trai của vị Ràdha, vâng theo gương của người anh, Ngài xuất gia và chứng quả A La Hán.

Ðể nêu rõ sự hướng dẫn các giới luật, Ngài nói lên chánh trí của mình như sau:

Sanh của ta đã tận,

Chiến thắng dạy, làm xong,

Lưới danh được đoạn diệt,

Gốc sanh hữu nhổ lên.

Mục đích hạnh xuất gia,

Bỏ nhà, sống không nhà,

Ðích ấy đã đạt được,

Mọi kiết sử, diệt xong.

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Ràjagaha Vương Xá, trong một gia đình Bà La Môn, được đặt tên là Gotama. Khi còn trẻ, Ngài giao du với kẻ không tốt, bao nhiêu tài sản Ngài cho một kỹ nữ. Hối hận nếp sống bất chính của mình, Ngài mơ thấy hình ảnh bậc Ðạo Sư đang ngồi, với tâm tư hiểu biết tâm trạng của Ngài.

Bậc Ðạo Sư biết được tiến bộ của Ngài, sự thành tựu các nhân duyên thiết yếu, nên thuyết pháp cho Ngài. Ngài khởi lòng tin, xuất gia, chứng quả A La Hán, khi con dao đụng đến tóc Ngài, khi Ngài đang thọ hưởng lạc thiền định và quả giải thoát.

Một Cư Sĩ hỏi Ngài về tài sản của Ngài, Ngài thú nhận Ngài sống không được nghiêm túc, sống phi phạm hạnh, và với sự trong sạch hiện tại không có dục vọng, Ngài nói lên chánh trí của Ngài:

Bậc ẩn sĩ nằm ngủ,

Sống an lạc hạnh phúc,

Họ không bị nữ nhân,

Trói buộc và chi phối.

Nữ nhân, phải luôn luôn

Phòng hộ và chế ngự.

Sự thật về nữ nhân,

Thật khó được chấp nhận.

Hỡi này các dục vọng,

Ta quyết giết các ngươi,

Nay chúng ta đối ngươi,

Không còn gì nợ nần,

Chúng ta nay đi đến

Cảnh giới gọi Niết Bàn,

Ði đến tại chỗ ấy

Không còn có sầu muộn.

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Vesàli, con vị Vua địa phương Licchavì. Ðược cảm hóa bởi uy nghi đức độ của Đức Phật khi Ngài đến thăm Vesàli, Ngài xuất gia, không bao lâu chứng quả A La Hán.

Biết ơn những ai ủng hộ Ngài, Ngài không có từ chối những vật dụng được cúng dường và hưởng thọ các vật cúng dường ấy.

Người thường dâng cho Ngài thích thọ hưởng, nhưng Ngài không để ý những lời phê bình ấy.

Gần Ngài có một vị Tỳ Kheo giả dối, lừa gạt quần chúng bằng cách giả dối sống thiểu dục tri túc, do vậy được quần chúng tôn trọng.

Rồi Thiên Chủ Sakka Ðế thích thấy được sự giả dối này, đi đến Trưởng Lão Vasabha hỏi: Thưa Tôn giả, kẻ giả dối kia sao lại làm vậy?

Ngài trả lời với bài kệ, chỉ trích kẻ ác bất thiện kia:

 Trước nó giết tự ngã,

Sau nó giết người khác,

Họ khéo giết tự ngã,

Như chim mồi, mồi chim.

Không phải Bà La Môn,

Với dung sắc bên ngoài,

Bà La Môn chính thống,

Phải dung sắc bên trong,

Với ai, làm ác nghiệp,

Người ấy là hắc nhân,

Là chồng của Sujà.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần