Phật Thuyết Kinh Trì Thế - Phẩm Hai - Phẩm Năm ấm - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH TRÌ THẾ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẨM HAI
PHẨM NĂM ẤM
TẬP HAI
Người ấy do hành thân, khẩu, ý không thanh tịnh nên bị đọa trong đường không thanh tịnh là: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hoặc có khi được tạm sinh trong hàng trời, người, thì tham đắm nơi hành thân, khẩu, ý tức càng đắm chấp sâu nặng nơi hành ấm.
Đại Bồ Tát nên chánh quán như vậy. Chúng ta nay không nên học theo phàm phu. Chúng ta nên hành thân, khẩu, ý thanh tịnh, không nên tham đắm nơi hành ấm, nên quán lỗi lầm của hành ấm, nên tìm đường ra khỏi hành ấm.
Người quán sát như vậy gọi là chánh quán như thật về hành ấm, cũng gọi là chánh quán về hành ấm vô thường. Ngay khi ấy, quán như thật về các hành, các hành tập, các hành diệt, các hành diệt đạo, không thọ nhận, không tham, không vướng các hành, cũng không tham, không vướng nơi hành ấm.
Khi quán như vậy, là xa lìa tướng của hành ấm, cũng đi trên con đường không hành ấm, tức quán các hành là không, ở trong tất cả các hành sinh tâm sợ hãi, nhàm chán. Chỉ khởi hành thân, khẩu, ý thanh tịnh, trừ bỏ tướng hành, vì lìa tướng của hành ấm nên người này có chỗ đạt được của thân đều thanh tịnh.
Vì sao?
Vì người ấy thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh. Người ấy xa lìa tướng của hành ấm, hủy hoại các pháp và tướng căn bản.
Khi chánh quán như vậy, thấy hành ấm không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không thủ đắc tướng sinh nhất định của các hành, cũng không thủ đắc tướng diệt nhất định của các hành, tức quán các hành không có tướng sinh diệt, hết thảy các hành cũng không sinh diệt.
Người này quán sát tất cả các hành không có tướng sinh diệt nên sinh tâm nhàm chán, thông đạt đúng đắn về tướng tập diệt của các hành. Tuy chứng đắc tướng vô sinh các hành nhưng vẫn khéo thông đạt tướng của các hành.
Vì sao?
Này Bồ Tát Trì Thế! Vì hành ấm này không có tướng nhất định, giống như thân cây chuối không thể có tướng bền chắc. Tướng không bền chắc ấy cũng không thể thủ đắc. Hành ấm này cũng như vậy, không thể có được tướng bền chắc, tướng không bền chắc ấy cũng không thể thủ đắc.
Này Bồ Tát Trì Thế! Đại Bồ Tát quán sát lựa chọn, tư duy nhập vào hành ấm như vậy.
Này Bồ Tát Trì Thế! Thế nào là Đại Bồ Tát chánh quán về thức ấm?
Đại Bồ Tát quán phi ấm là thức ấm, ấm điên đảo là thức ấm, ấm hư vọng là thức ấm.
Vì sao?
Này Bồ Tát Trì Thế! Vì thức ấm này từ điên đảo sinh ra, hư vọng làm duyên trói buộc, theo nghiệp nơi đời trước mà có, là chỗ hệ thuộc nơi duyên hiện tại, thuộc về các nhân duyên, hư vọng không có thật, từ nghĩ tưởng, phân biệt dấy khởi, theo thức sinh ra, có đối tượng nhận biết của thức nên gọi là thức.
Từ nghĩ tưởng, phân biệt theo giác quán mà sinh, giả mượn mà có, có đối tượng nhận biết nên thường gọi là thức. Do biết các vật, do khởi tâm nghiệp, do tư duy, các duyên sinh ra tướng, do khởi lên vô số tư duy, nên được gọi là thức ấm.
Do có chỗ nhận thức nên có hình tượng của thức sinh xuất, vì chỉ rõ về nghiệp của tâm, thâu tóm tư duy nên gọi là thức ấm, hoặc gọi là tâm, hoặc gọi là ý, hoặc gọi là thức, đều là do ý nghiệp phân biệt nên thuộc về thức ấm, hiện ra tướng thức, hành thức, tánh thức, nên gọi là thức ấm.
Như vậy, phi ấm là thức ấm, không sinh, không khởi, không tạo tác, chỉ do điên đảo tương ưng với duyên nơi hư vọng mà biết nên gọi là thức ấm.
Vì sao?
Vì thức ấm này từ các duyên sinh khởi, không có tự tánh, thứ lớp tiếp nối sinh khởi, từng niệm từng niệm sinh diệt. Thức này rốt cuộc không sinh tướng ấm.
Vì sao?
Vì tướng sinh của thức ấm này là không thể thủ đắc, tướng nhất định cũng không thể thủ đắc. Vì tướng sinh không thể thủ đắc, tướng nhất định không thể thủ đắc, nên nguồn gốc vốn không thật có, vì tự tướng vốn không, vì sự bền chắc không thể thủ đắc nên người trí chánh quán thấu đạt phi ấm là thức ấm.
Phàm phu đối với phi thức ấm sinh tưởng về thức ấm, do giác quán tưởng nghĩ, phân biệt điên đảo, tương ưng với hư vọng nên bị trói buộc mà tạm gọi là thức ấm. Tham chấp thức ấm này, nương tựa nơi đối tượng nhận thức, nương tựa nơi thức chủng, hiện ra tư duy nên sinh khởi thức ấm.
Người này với vô số phân biệt nên tham chấp nơi nội thức, tham chấp nơi ngoại thức, tham chấp nơi nội ngoại thức, tham chấp nơi thức xa, tham chấp nơi thức gần. Do tướng thức nên phân biệt sinh khởi thức ấm. Người này hoặc tâm, hoặc ý, hoặc thức do nhớ tưởng, phân biệt giả hợp nên tạm gọi là tâm, là ý, là thức.
Biết vô số tướng của tâm sinh như vậy là phàm phu tham chấp nơi thức ấm, bị thức ấm trói buộc, do tâm ý thức hòa hợp mà sinh khởi các loại thức ấm, phân biệt việc hư vọng, vì là một tướng, vì tướng quyết định, nên có thể đạt được tâm ấy, ý ấy, thức ấy, nên có thể được phân biệt ái chấp.
Người này nương tựa nơi thức ấm, cùng tham chấp nơi thức ấm sâu dày, nên cũng được thức ấm quá khứ tham chấp nghĩ là có, cũng được thức ấm vị lai tham chấp nghĩ là có, cũng được thức ấm hiện tại tham chấp nghĩ là có.
Các phàm phu ở trong các pháp thấy, nghe, hay biết, chấp trước nên có thức ấm, tham chấp tưởng nghĩ là có. Người này tham chấp pháp thấy, nghe, hay biết nên bị thức ấm trói buộc, quý mến chỗ hiểu biết của mình.
Do tâm ý thức hòa hợp trói buộc khiến giong ruổi qua lại, nghĩa là từ đời này đến đời khác, từ đời khác đến đời này đều bị thức ấm trói buộc nên không thể biết như thật về thức ấm. Thức ấm là hư vọng, không thật, tương ưng với điên đảo, vì thấy, nghe, hay biết mà sinh khởi, trong đó không có thức thật.
Nếu không có thể thật quán như vậy hoặc khởi lên thức thiện, hoặc khởi lên thức bất thiện, hoặc khởi lên thức thiện, bất thiện. Người này thường hành động theo thức, không biết chỗ sinh của thức, không biết tướng như thật của thức.
Này Bồ Tát Trì Thế! Đại Bồ Tát ở trong đó chánh quán như vậy, biết thức ấm là từ thức hư vọng sinh khởi. Nghĩa là trong pháp thấy, nghe, hay biết, các nhân duyên sinh khởi, vì không có pháp sinh pháp tưởng, nên tham chấp nơi thức ấm.
Chúng ta không nên học theo phàm phu, chúng ta phải chánh quán như thật về thức, chánh quán như thật về thức ấm. Các Bồ Tát này khi quán biết như thật thức ấm vốn hư vọng, không thật, từ xưa đến nay thường là không có tướng sinh, biết phi ấm là thức ấm, hình tượng ấm là thức ấm, huyễn ấm là thức ấm.
Cũng như thức của người huyễn hóa, không ở bên trong, không ở bên ngoài, cũng không ở trung gian. Tánh của thức cũng như vậy, là tánh như huyễn, duyên sinh, hư vọng, theo tưởng nghĩ, phân biệt mà sinh khởi, không thật sự có, như người máy bằng gỗ.
Thức cũng như vậy, từ điên đảo sinh khởi, do nhân duyên hư vọng hòa hợp nên có. Khi quán như vậy, biết thức đều là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, biết tướng của thức như huyễn, quán tánh của thức như huyễn.
Bấy giờ Bồ Tát nghĩ thế này: Thế gian thật là cuồng si, nghĩa là từ nơi thức nghĩ tưởng phân biệt sinh khởi nơi thế gian, cùng tâm ý thức hòa hợp, ba cõi chỉ đều là thức. Tâm ý thức ấy cũng không có hình tướng, không có phương hướng, không ở trong pháp, không ở ngoài pháp.
Phàm phu vì tương ưng với hư vọng trói buộc nên ở nơi thức ấm tham chấp cho là ngã hoặc ngã sở. Người này tham chấp thức ấm bên trong, tham chấp thức ấm bên ngoài, tham chấp thức ấm bên trong ngoài, tham chấp thức ấm nơi mình, nơi người.
Người này quý trọng thức am, bị thức ấm ấy trói buộc, thọ nhận mùi vị của thức ấm, nói tướng của thức ấm, nghĩa là hoặc tâm, hoặc ý, hoặc thức hoạt động theo mùi vị ấy nên tham nhận thức ấm. Người này bị thức trói buộc, thức ấm hợp nên bị tâm ý thức dẫn dắt. Do sức nơi nhân duyên của tâm ý thức nên sinh ra phàm phu. Nếu tư duy thấp kém, chịu thân thấp kém.
Nếu tư duy cao thượng, được thân cao thượng. Nếu tư duy trung bình, được thân trung bình. Người này tùy theo sức của tâm ý thức, sinh khởi nương tựa nơi các nhập, vì tham chấp thức ấm, nên không thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não.
Bồ Tát ở trong ấy chánh quán như thật về thức ấm. Quán như thật tướng của thức ấm là vô thường, nên không tham, không đắm, không nghĩ về thức ấm quá khứ. Biết phi ấm là thức ấm, cũng không tham, không đắm, không nghĩ về thức ấm vị lai.
Biết phi ấm là thức ấm, cũng không nương tựa nơi thức ấm hiện tai. Biết như thật thức ấm là tướng vô thường, biết như thật thức ấm là tướng sinh diệt. Nếu người chánh quán tư duy về thức ấm như vậy gọi là người chánh quán đi vào con đường của thức ấm.
Nghĩa là biết như thật về thức, biết như thật về thức tập, biết như thật về thức diệt, biết như thật về thức diệt đạo. Người này quán như thật về tướng tập diệt của thức ấm, có thể phá bỏ thức ấm, có thể đoạn trừ tất cả tướng.
Biết tướng tập diệt của thức ấm, cũng là thấu rõ tướng tập diệt của thức ấm. Bồ Tát bấy giờ cũng không sinh thức ấm, cũng không diệt thức ấm, vì thức ấm này từ xưa đến nay không sinh. Khi quán như vậy không phân biệt tướng của thức diệt, thấu rõ tướng vô sinh của thức ấm.
Vì sao?
Này Bồ Tát Trì Thế! Vì thức ấm này không sinh, không tướng, không thành, vì tánh của thức ấm này hư vọng nên nhập vào tướng vô sinh.
Này Bồ Tát Trì Thế! Thức ấm hoàn toàn không có tướng sinh diệt, vì tướng của thức ấm này từ các duyên sinh ra.
Này Bồ Tát Trì Thế! Đại Bồ Tát quán pháp nhân duyên như vậy, nên biết. Phi ấm là thức ấm. Quán sát, tin hiểu, chứng biết, thông đạt các thức hiện có đều biết đúng như thật. Bồ Tát biết như thật về thức ấm nên phá bỏ tất cả pháp của đối tượng duyên, đối tượng nhận biết.
Này Bồ Tát Trì Thế! Đại Bồ Tát quán thức ấm như vậy, biết thức ấm này không sinh, không tạo, không khởi, không nhận, không chỗ nhận, chỉ do các duyên sinh, các duyên hợp nên có. Duyên với pháp thấy, nghe, hay, biết nên bị buộc vào cái có, nhưng từ xưa đến nay rốt ráo là không. Khi quán thức ấm như vậy liền biết thức ấm là tướng không tạo, không khởi, không tham, không vướng.
Này Bồ Tát Trì Thế! Đại Bồ Tát chánh quán như vậy mà vào thức ấm. Nếu Bồ Tát có thể theo phương tiện nhập nơi năm ấm như vậy, có thể theo phương tiện chánh quán về năm ấm như vậy, đó là người thông đạt, đi vào tập diệt đạo của năm ấm, đều có thể đoạn trừ tướng của các ấm, biết chân thật về phương tiện của năm ấm.
Do phương tiện này nên đối với năm thủ ấm không tham, không chấp, không buộc, không trói, biết như thật về tướng của sắc là vô thường. Bồ Tát này đối với sắc nếu có tâm dục nhiễm thì có thể đoạn trừ.
Cũng biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức, cũng biết như thật về tướng của thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Nếu ở trong thọ, tưởng, hành, thức có tâm dục nhiễm thì có thể đoạn trừ. Bồ Tát ở trong năm thọ ấm vì đoạn trừ dục nhiễm nên tùy thuận, thông đạt, quyet định phương tiện của năm ấm. Khi quán như vậy thì có thể biết rõ tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm.
Này Bồ Tát Trì Thế! Thế nào là Đại Bồ Tát quán sát tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm?
Đại Bồ Tát quán chúng sinh ban đầu khi mới vào thai là Ca La La, năm ấm trước diệt, liền có năm ấm sinh. Từ đây trở đi quán tướng sinh diệt của năm ấm. Tuy thức trước diệt nhưng cũng biết tướng thức của năm ấm không đoạn diệt. Tuy nương tựa nơi Ca La La cũng biết năm ấm là không thường, không đến.
Quán như vậy là quán tướng sinh diệt trong một niệm lúc mới vào thai của năm thọ ấm. Từ Ca La La cho đến lúc sinh ra và sau khi lớn lên, cho đến khi chết, quán tướng sinh diệt trong từng niệm của năm thọ ấm này. Như vậy là quán sát tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm.
Này Bồ Tát Trì Thế! Đây là tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm. Nghĩa là năm thọ ấm trước diệt, kế tiếp là không vật đến thai. Khi thức vừa mới hợp thì năm ấm liền có sinh diệt. Do năm thọ ấm của Ca La La mà tạm gọi là người.
Vì sao?
Này Bồ Tát Trì Thế! Vì thức không có chỗ nương thì không thể trụ. Chỗ thức nương tựa là năm thọ ấm.
Này Bồ Tát Trì Thế! Lại nữa, tướng sinh diệt vi tế nơi năm thọ ấm của Chư Thiên trong Vô Sắc Giới cũng nên biết như vậy.
Này Bồ Tát Trì Thế! Tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm như vậy, trí tuệ của Bích Chi Phật còn không thể hiểu tới, huống gì là trí tuệ của Thanh Văn. Chỉ có trí tuệ của Chư Phật, Như Lai mới hiểu rõ năm thọ ấm. Tướng sinh diệt vi tế từ khi mới vào thai cho đến sinh nơi Cõi Trời Vô Sắc thì các ấm sinh diệt trong từng niệm.
Nghĩa là nhất thiết trí tuệ xuất sinh trí tuệ của tất cả thế gian. Đại Bồ Tát chứng đắc pháp nhẫn vô sinh đến cảnh giới của Phật tuệ. Người này tuy quán sát tướng vi tế của năm thọ ấm như vậy từ khi mơi nhập thai cho đến sinh nơi Cõi Trời Vô Sắc, nhưng cũng không thể biết rốt ráo như Chư Phật đã biết.
Này Bồ Tát Trì Thế! Chư Phật Như Lai không theo trí tuệ khác mà tự nhiên chứng đắc phương tiện của nhất thiết trí tuệ, chứng đắc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Trí tuệ của Chư Phật thông đạt khắp tất cả. Trí tuệ của Chư Phật vô ngại, ở trong tất cả pháp đạt được trí tuệ quyết định, ở trong tất cả pháp đạt được sức tự tại.
Vì sao?
Vì ở trong vô lượng, vô biên ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, Chư Phật đã từng hành pháp thâm diệu.
Này Bồ Tát Trì Thế! Tất cả phàm phu không thể quán năm thọ ấm theo phương tiện như vậy, huống hồ là quán tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm.
Vì sao?
Vì các phàm phu không thể biết như thật về năm thọ ấm, phàm phu không biết thủ, không biết về thọ ấm.
Này Bồ Tát Trì Thế! Sao gọi là thủ?
Thủ là thủ của ngã, thủ của chúng sinh, thủ của kiến chấp, thủ của giới, thủ của năm ấm, thủ của mười tám tánh, thủ của mười hai nhân duyên, đó là thủ. Cho đến tất cả pháp hiện có hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, đó là thủ của dục, thủ của hữu, thủ của kiến, văn giác thức, thủ của ngã, thủ của ngã sở.
Này Bồ Tát Trì Thế! Phàm phu đối với thủ hư vọng này không thấy, không biết, do nhân duyên điên đảo mà chấp thủ các pháp, nên họ bị chấp thủ trói buộc. Do vô minh làm nhân duyên chấp thủ các hành, các hành làm nhân duyên chấp thủ thức, thức làm nhân duyên chấp thủ danh sắc.
Chúng sinh nhiễm chấp tướng thô của danh sắc nên hướng đến các sắc, đó là sắc thủ, sắc hợp, sắc buộc và chấp thủ bốn ấm Vô Sắc là thọ, tưởng, hành, thức, phân biệt là danh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bi đại ái - Phẩm Mười Hai - Phẩm Trí Hiểu Chúng Sinh
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Trì Nhân - Phẩm Sáu - Các Nhập
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Núi Tần đà
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Sáu - Phẩm Danh Tự Công đức
Phật Thuyết Kinh Chư Phật Yếu Tập Kinh Pháp Cốt Yếu Của Chư Phật - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Sinh - đức Phật Thuyết Giảng Về Chuyện Ngọc Bị Rơi Vào Trong Biển
Phật Thuyết Kinh Huyễn Sĩ Nhân Hiền - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Bốn Mươi Bốn - Phẩm Ba Anh Em Ca Diếp - Phần Ba