Phật Thuyết Kinh Trường Bộ - Kinh Tệ Túc - Phần Hai

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TRƯỜNG BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

KINH TỆ TÚC  

PHẦN HAI  

Này Tôn Chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ. Nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.

Này Tôn Chủ, ví như người cân một hòn sắt được đốt nóng trọn ngày, cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, và một thời khác cũng đem cân hòn sắt ấy nhưng nay đã nguội lạnh.

Khi nào thì hòn sắt ấy nhẹ hơn, mềm mại hơn, hay nhu nhuyến hơn?

Khi hòn sắt ấy đang cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực hay khi đã nguội lạnh?

Tôn Giả Kassapa, khi hòn sắt ấy cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, khi ấy hòn sắt nhẹ hơn, mềm mại hơn và nhu nhuyến hơn. Khi hòn sắt ấy không cháy đỏ, không hừng lửa, nguội lạnh rồi, khi đó hòn sắt nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.

Này Tôn Chủ, khi thân này có tuổi thọ, có sức nặng, có thức thì nó nhẹ hơn, mềm mại hơn và nhu nhuyến hơn. Khi các thân này không có tuổi thọ, không có sức nóng và không có thức thời nó nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.

Này Tôn Chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận: Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.

Dầu Tôn Giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Này Tôn Chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo?

Tôn Giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Này Tôn Chủ, như thế nào?

Tôn Giả Kassapa, có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: Thưa Tôn Chủ, đây là người ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.

Tôi nói với họ như sau: Các khanh, hãy giết người này bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy của anh ta.

Những người này vâng lời tôi và đáp: Xin vâng, Tôn Chủ! Rồi họ bèn giết người ấy bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy.

Khi người áy chết một phần nửa, tôi bảo họ: Hãy lật ngược người này nằm ngửa, và xem linh hồn của anh ta có đi ra không?

Họ lật ngược người này nằm ngửa, và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra.

Tôi lại bảo họ: Hãy lật người này nằm cong lại nằm phía một bên nằm phía bên kia đặt người đó đứng thẳng đặt người ấy đứng lộn đầu xuống đánh người ấy với tay đánh người ấy với cục đất đánh người ấy với gậy đánh người ấy với gươm đánh anh ta phía bên này đánh anh ta phía bên kia đánh anh ta cùng khắp tất cả và xem linh hồn của anh ta có đi ra không?

Họ đánh anh ta phía bên này, đánh anh ta phía bên kia, đánh anh ta cùng khắp tất cả và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra.

Anh ta có mắt và sắc pháp các mặt, nhưng căn không cảm thọ được.

Anh ta có tai và các tiếng có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.

Anh ta có mũi và các hương mặt, nhưng căn không cảm thọ được.

Anh ta có lưỡi và các vị có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.

Anh ta có thân và các xúc có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.

Tôn Giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Này Tôn Chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ. Nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa của lời nói.

Này Tôn Chủ, thuở xưa có một người thổi tù và, cầm tù và bằng vỏ ốc và đi đến biên giới. Người ấy đi đến một làng kia, sau khi đến xong, đứng giữa làng, thổi ống tù và ba lần, đặt ống tù và xuống đất và ngồi xuống một bên.

Này Tôn Chủ, những người dân ở biên giới ấy suy nghĩ: Tiếng ấy là tiếng của ai mà lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy.

Họ tụ họp lại và hỏi người thổi tù và: Này bạn, tiếng ấy là tiếng của ai mà lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy?

Này các bạn, đây là cái tù và, và tiếng của tù và ấy khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy.

Họ bèn đặt chiếc tù và nằm ngửa và nói: Hãy nói đi, bạn tù và! Hãy nói đi, bạn tù và! Nhưng chiếc tù và ấy không nói tiếng gì hết.

Họ đặt chiếc tù và ấy nằm cong lại, nằm phía bên này, nằm phía bên kia đặt đứng thẳng đặt ngược đầu xuống lấy tay đánh lấy cục đấy đánh lấy gậy đánh lấy gươm đánh đánh phía bên này đánh phía bên kia đánh cùng khắp tất cả và nói: Này bạn tù và, hãy nói đi! Này bạn tù và, hãy nói đi! Nhưng chiếc tù và ấy không nói gì cả.

Này Tôn Chủ, rồi người thổi tù và suy nghĩ như sau: Thật là ngu si, những người dân ở biên giới này! Sao lại đi tìm tiếng tù và một cách vô ý thức như vậy!

Trong khi họ đang tìm kiếm như vậy, người thổi tù và cầm chiếc tù và lên, thổi lên ba lần rồi cầm chiếc tù và ra đi.

Này Tôn Chủ, những người ở biên giới suy nghĩ như sau: Này các bạn, chiếc tù và này, khi nào có người phụ trợ, có sự nỗ lực phụ trợ và có gió thổi phụ trợ, thì chiếc tù và phát ra tiếng. Khi nào chiếc tù và này không có người phụ trợ, không có sự nỗ lực phụ trợ và không có gió thổi phụ trợ thì chiếc tù và này không phát ra tiếng.

Cũng vậy, này Tôn Chủ! Khi nào thân này có tuổi thọ phụ trợ, có hơi nóng phụ trợ và có thức phụ trợ, thời thân ấy đi tới, đi lui, đứng lên, ngồi xuống, nằm xuống, thời mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý biết pháp.

Nhưng khi thân này không có tuổi thọ phụ trợ, không có hơi nóng phụ trợ, và không có thức phụ trợ, thời thân ấy không đi tới, không đi lui, không đứng lại, không ngồi xuống, không nằm xuống, thời mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi hương, lưỡi không nếm vị, thân không cảm xúc, ý không biết pháp.

Này Tôn Chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận: Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.

Dầu Tôn Giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Này Tôn Chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo?

Tôn Giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Này Tôn Chủ, như thế nào?

Tôn Giả Kassapa, nay có những người bắt được một tên ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: Thưa Tôn Chủ, đây là người ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.

Tôi nói với họ như sau: Các khanh hãy lột da anh ta, để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta. Chúng lột da của người ấy, nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta.

Rồi tôi bảo họ: Các khanh hãy lột da trong của người ấy cắt thịt cắt gân cắt xương đẽo cho đến xương tủy để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta. Họ đẽo cho đến xương tủy của người ấy, nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta.

Này Tôn Giả Kassapa, sự kiện là như vậy nên tôi chấp nhận: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Này Tôn Chủ, tôi sẽ cho một ví dụ. Ở đời một số người có trí thức, nhờ ví dụ hiểu được ý nghĩa câu nói.

Này Tôn Chủ, thuở xưa có người bện tóc thờ lửa, sống trong một ngôi nhà lá, tại một khu rừng.

Này Tôn Chủ, một số dân chúng di cư đến đấy. Vị lãnh đạo của chúng, sau một đêm ở xung quanh cái cốc của người bện tóc thờ lửa bèn bỏ đi.

Này Tôn Chủ, người bện tóc thờ lửa suy nghĩ: Nếu ta đến chỗ ở của người lãnh đạo, ta có thể kiếm được một vài đồ vật hữu dụng ở đó. Rồi người bện tóc thở lửa, dậy sớm đến chỗ ở của người lãnh đạo, và thấy một đứa hài nhi bị quăng nằm ngửa ở đó.

Thấy vậy vị ấy nghĩ: Thật không phải chút nào nếu ta để một hài nhi phải chết trong khi ta đang tìm kiếm. Ta hãy đem hài nhi này về cốc của ta, nuôi nó, săn sóc nó, cấp dưỡng nó. Rồi người bện tóc thờ lửa ấy đem đứa hài nhi ấy về cốc nuôi nó, săn sóc nó, cấp dưỡng nó.

Khi đứa trẻ đến tuổi mười hay mười hai, người bện tóc thờ lửa có công việc phải đi xuống đồng bằng.

Người bện tóc thờ lửa bảo đứa trẻ ấy: Này con, ta muốn đi xuống đồng bằng, hãy chăm sóc ngọn lửa, đừng để nó tắt.

Nếu lửa có tắt, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quay để nhóm lửa, hãy nhen lửa lại và chăm sóc ngọn lửa. Người bện tóc thờ lửa ấy, sau khi căn dặn đứa trẻ, bèn đi xuống đồng bằng. Ðứa trẻ mãi ham vui đùa khiến lửa tắt.

Ðứa trẻ suy nghĩ: Cha ta có bảo ta: Hãy chăm sóc ngọn lửa, đừng để nó tắt.

Nếu con để tắt lửa, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quay để nhóm lửa lại. Vậy ta hãy nhen lửa lên và chăm sóc ngọn lửa.

Rồi đứa trẻ ấy lấy búa chẻ đồ quây lửa với ý nghĩ: Ta sẽ tìm thấy lửa. Nhưng lửa không có.

Nó đem chẻ đồ quây lửa làm hai, làm ba, làm bốn, làm năm, làm mười, làm trăm, chẻ nhỏ vụn ra, lấy chày mà giã, và sau khi đã giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn với ý nghĩ: Ta sẽ tìm thấy lửa. Nhưng lửa không có.

Người bện tóc sau khi làm xong công việc ở đồng bằng, liền về cốc của mình và hỏi đứa bé: Này con, sao con để tắt lửa thế này?

Thưa cha, con mãi ham chơi nên để lửa tắt.

Rồi con suy nghĩ: Cha đã bảo ta: Hãy chăm sóc ngọn lửa, đừng để tắt nó.

Nếu con để tắt lửa, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quây để nhen lửa. Hãy nhen lửa lại và chăm sóc ngọn lửa. Vậy ta hãy nhen lửa lên và chăm sóc ngọn lửa.

Thưa cha, rồi con lấy búa nhỏ chẻ đồ quây lửa với ý nghĩ: Ta sẽ tìm ra lửa. Nhưng con tìm không được lửa.

Con đem chẻ đồ quây lửa, làm hai, làm ba, lám bốn, làm năm, làm mười, làm trăm, chẻ nhỏ vụn ra, lấy chày mà giã, và sau khi giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn với ý nghĩ: Ta sẽ tìm ra lửa, nhưng con không tìm được lửa.

Rồi người bện tóc thờ lửa ấy suy nghĩ: Ðứa trẻ này thật ngu si và kém thông minh.

Sao lại đi tìm lửa một cách thiếu suy tư như thế này?

Trong khi đứa trẻ đứng nhìn, người ấy cầm đồ quây lửa, nhen lửa lên và nói với đứa trẻ: Này con, nhen lửa phải làm như vậy đó, chớ không phải như con ngu si và kém thông minh, tìm lửa một cách thiếu suy tư. Cũng vậy này Tôn Chủ, Ngài ngu si, kém thông minh, đi tìm đời sau một cách kém suy tư.

Này Tôn Chủ, hãy từ bỏ ác kiến ấy! Chớ có tự dấn thân vào sự bất an và đau khổ trường kỳ. Dầu Tôn Giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.

Vua Pasenadi nước Kosala và Vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: Tôn Chủ Pàyàsi có quan điểm, có tri kiến như thế này: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Tôn Giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau: Tôn Chủ Pàyà thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.

Vì tức giận, nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lừa gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.

Vậy này Tôn Chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ. Ở đời một số người có trí, nhờ ví dụ mà hiểu ý nghĩa lời nói.

Này Tôn Chủ, thuở xưa, một đoàn lữ hành lớn gồm một ngàn cỗ xe đi từ phương Ðông Quốc Ðộ qua phương Tây Quốc Ðộ.

Ði đến chỗ nào, đoàn lữ hành ấy cũng tiêu thụ rất mau cỏ, củi, nước và cây lá xanh tươi. Ðoàn lữ hành ấy có hai vị lãnh đạo, một vị lãnh đạo năm trăm cỗ xe, một vị lãnh đạo năm trăm cỗ xe.

Hai vị lãnh đạo đoàn lữ hành suy nghĩ như sau: Ðoàn lữ hành lớn này gồm có một ngàn cỗ xe. Chỗ nào chúng ta đi tới thì đoàn tiêu thụ rất mau cỏ, củi, nước và cây lá xanh tươi. Vậy chúng ta hãy chia đoàn lữ hành này thành hai, mỗi đoàn có năm trăm cỗ xe.

Rồi hai vị lãnh đạo ấy chia đoàn lữ hành thành hai, một đoàn có năm trăm cỗ xe, một đoàn có năm trăm cỗ xe. Rồi một vị lãnh đạo thâu lượm rất nhiều cỏ, củi, nước và cho đoàn lữ hành chuyển bánh.

Sau khi đi hai, ba ngày, vị lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ, mang theo ống tên, đeo vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xe dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại.

Thấy vậy, người lãnh đạo hỏi: Bạn từ phương nào đến?

Từ nơi Quốc Độ kia đến.

Bạn sẽ đi đâu?

Sẽ đi đến địa phương tên này.

Bạn có thấy, trong khu rừng trước mặt, có mưa to gần đây không?

Thưa bạn, trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường xá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.

Khi ấy người lãnh đạo nói với những người đánh xe: Này các bạn, người này nói như sau: Trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc. Vậy các bạn hãy quăng cỏ, củi và nước cũ đi, để đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn.

Thưa bạn, vâng!

Những người đánh xe vâng theo lời vị lãnh đạo đoàn lữ hành, quăng cỏ, củi và nước cũ đi và dẫn đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn.

Nhưng khi đi đến trạm nghỉ thứ nhất, họ không thấy cỏ, củi hay nước, trạm thứ hai cũng vậy trạm thứ ba cũng vậy trạm thứ tư cũng vậy trạm thứ năm cũng vậy trạm thứ sáu cũng vậy trạm thứ bảy cũng vậy, họ không thấy cỏ, củi hay nước.

Tất cả đều gặp sự bất hạnh và tai nạn. Tất cả người và vật trong lữ đoàn ấy, đều bị Dạ Xoa, phi nhân ăn thịt, chỉ còn xương để lại.

Khi người lãnh đạo đoàn thứ hai được biết: Nay đoàn kia đi đã khá xa. Bèn cho thâu lượm nhiểu cỏ, củi và nước và cho đoàn khởi hành.

Sau khi đi hai, ba ngày, vị lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ, mang theo ống tên, đeo vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xa dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại.

Thấy vậy người lãnh đạo hỏi:

 Bạn từ phương nào đến?

Từ nơi Quốc Độ kia đến.

Bạn sẽ đi đâu?

Sẽ đi đến địa phương tên này.

Bạn có thấy trong khu rừng trước mặt, có mưa to gần đây không?

Thưa bạn, trong khu rừng trước mặt, có mưa to, đường sá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.

Khi ấy người lãnh đạo nói với những người đánh xe: Này các bạn, người này nói như sau: Trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cổ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ làm cho đoàn xe mệt nhọc.

Nhưng này các bạn, người ấy không phải là bạn của chúng ta, cũng không phải là bà con ruột thịt, làm sao chúng ta có thể tin người ấy được?

Chớ quăng bỏ các thứ cỏ, củi và nước đã dự trữ từ trước. Hãy cho đoàn lữ hành tiến tới với các hàng hóa đã được mang theo, chúng ta không quăng bỏ đi các vật đang dự trữ từ trước.

Thưa bạn, vâng!

Những người đánh xe ấy, vâng theo lời người lãnh đạo, cho đoàn lữ hành tiến tới với những hàng hóa đã mang theo. Ðến trạm nghĩ thứ nhất những người này không thấy cỏ, củi hay nước, đến trạm thứ hai cũng vậy trạm thứ ba cũng vậy trạm thứ tư cũng vậy.

Trạm thứ năm cũng vậy trạm thứ sáu cũng vậy. Trạm thứ bảy cũng vậy chúng không thấy cỏ, củi hay nước, nhưng chúng thấy đoàn lữ hành trước bị lâm vào tai nạn.

Những người và thú vật trong đoàn lữ hành kia, chúng thấy các bộ xương do con Dạ Xoa phi nhân ấy ăn thịt.

Rồi người lãnh đạo nói với các người đánh xe: Này các bạn, đoàn lữ hành ấy bị lâm nạn vì bị người lãnh đạo ngu si như vậy hướng dẫn. Vậy này các bạn, hãy bỏ đi những vật hạng ít giá trị của đoàn lữ hành này, hãy đem theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia.

Thưa bạn, vâng!

Những người đánh xe ấy vâng theo người lãnh đạo quăng bỏ đi những vật hạng ít giá trị của đoàn lữ hành của mình, đem đi theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia và đi qua bãi sa mạc ấy một cách an toàn, vì được hướng dẫn bởi một vị lãnh đạo sáng suốt.

Cũng vậy này Tôn Chủ, người ngu si không có trí sẽ gặp nạn vì đã đi tìm kiếm đời sau một cách thiếu suy tư, giống như người lãnh đạo đoàn lữ hành kia. Những ai tự nghĩ có thể tin bất cứ điều gì được nghe sẽ gặp hoạn nạn như những người đánh xe kia.

Này Tôn Chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy!

Này Tôn Chủ, bãy từ bỏ ác tà kiến này!

Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ bất hạnh lâu dài. Dầu Tôn Giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.

Vua Pasenadi nước Kosala là Vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: Tôn Chủ Pàyàsi có quan điểm, có tri kiến như thế này: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Tôn Giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau: Tôn Chủ Pàyàsi thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.

Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến sai lạc. Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.

Này Tôn Chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ. Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói. Thuở xưa có một người nuôi heo đi từ làng của mình đến một làng khác. Ở tại đấy, ông ta thấy một đống phân khô bị quăng bỏ.

Thấy vậy, nó tự nghĩ: Ðống phân khô khá nhiều bị quăng bỏ đi có thể làm đồ ăn cho các con heo của ta. Vậy ta hãy mang đống phân khô này đi. Rồi ông ta trải áo choàng của nó mang đống phân khô lại, cột thành một gói đặt trên đầu rồi đi.

Ði giữa đường, một cơn mưa lớn trái mùa xẩy ra. Ông mang bọc phân ấy đi, với phân thấm ướt tiết ra và chảy thành giọt, làm ông lem lấm phân cho đến đầu móng tay.

Mọi người thấy ông liền nói: Ông có thật sự điên, thật sự khùng chăng?

Làm sao ông lại mang bọc phân ấy đi, với nước phân thấm ướt tiết ra và chảy thành giọt, làm người lem lấm phân cho đến đầu móng tay.

Chính các người mới thật sự điên, chính các Người mới thật sự khùng. Chính nhờ như thế này, các con heo của tôi mới có đồ ăn. Cũng vậy này Tôn Chủ, Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người mang phân này.

Này Tôn Chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy! Này Tôn Chủ, hãy từ bỏ ác kiến ấy!

Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài. Dầu Tôn Giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.

Vua Pasenadi nước Kosala và Vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: Tôn Chủ Pàyàsi có quan điểm, có tri kiến như thế này: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.

Tôn Giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau: Tôn Chủ Pàyàsi thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.

Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lừa gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.

Này Tôn Chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ. Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.

Thuở xưa, có hai người đánh bạc đổ con xúc xắc. Một con bạc mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại. Con bạc thứ hai thấy con bạc ấy mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại.

Thấy vậy người này bàn với người kia: Này bạn, bạn đã thắng rõ ràng. Bạn hãy đưa cho tôi các con xúc xắc để đi làm lễ tế.

Thưa bạn, vâng! Con bạc ấy liền đưa các con xúc xắc cho con bạc kia.

Người này bèn lấy thuốc độc thoa vào các con xúc xắc và nói với người kia: Này bạn, hãy chơi đổ các con xúc xắc.

Thưa bạn, vâng! Con bạc ấy vâng theo lời của con bạc kia.

Lần thứ hai, hai con bạc ấy đổ con xúc xắc, lần thứ hai, con bạc này mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại. Con bạc thứ hai thấy con bạc kia, lần thứ hai, mỗi lần thua ngậm con xúc xắc thất bại.

Thấy vậy, người ấy nói với con bạc kia:

Con người không được biết.

Con xúc xắc được ngậm,

Ðã được bôi thoa nhiều,

Với thuốc độc đốt cháy.

Hãy ngậm đi, ngậm đi,

Con bạc ác độc kia!

Ngậm xong nhà ngươi phải

Ðau đớn vô cùng tận.

Cũng vậy này Tôn Chủ.

Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người đánh bạc.

Này Tôn Chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy!

Này Tôn Chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy!

Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài. Dầu Tôn Giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.

Vua Pasenadi nước Kosala và Vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: Tôn Chủ Pàyàsi có quan điểm, có tri kiến như thế này: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo!

Tôn Giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy, người ta sẽ phê bình tôi như sau: Tôn Chủ Pàyàsi thật ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.

Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lường gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.

Này Tôn Chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ. Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói. Thuở xưa, một quốc gia dời đi chỗ khác.

Một người nói với các bạn thuộc hạ của mình: Này các bạn, chúng ta hãy đi đến quốc gia kia, rất có thể chúng ta tìm được tiền bạc của cải.

Thưa bạn, vâng! Các thuộc hạ vâng lời người bạn kia.

Họ đi đến quốc gia kia, và đến một đường làng. Họ thấy một đống gai, quăng bỏ.

Thấy vậy, một người bạn nói với các người kia: Ðây là một đống gai quăng bỏ. Bạn hãy nhóm lại thành một bó. Tôi cũng nhóm lại thành một bó gai. Chúng ta hãy đem bó gai ấy đi.

Thưa bạn, vâng! Người bạn này vâng theo người bạn kia và cột bó gai lại. Họ mang hai bó gai, và đi đến một làng khác. Họ thấy một đống dây gai quăng bỏ.

Thấy vậy một người bạn nói với người kia: Ðống dây gai quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với bó dây gai ấy. Vậy bạn hãy nhóm lại thành một bó dây gai. Tôi cũng nhóm lại thành một bó dây gai. Chúng ta hãy đem hai bó dây gai ấy đi.

Này bạn, tôi đem đống dây gai này từ xa lại, và đống dây gai được bó buộc kỹ lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ, bạn hãy tự biết mà làm. Và người bạn trước quăng bó dây gai và lấy đống dây gai.

Rồi họ đến một con đường khác. Ở đấy họ thấy nhiều vải gai được quăng bỏ.

Thấy vậy, một người bạn nói với người kia: Nhiều vải gai được quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với cây gai hoặc với dây gai. Vậy Bạn hãy quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ quăng bỏ bao dây gai. Hai chúng ta sẽ mang bao vải gai này mà đi.

Này bạn, tôi đem đống dây gai này từ xa lại và đống dây gai được buộc bó kỹ lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ. Bạn hãy tự biết mà làm. Và người bạn trước quăng bỏ dây gai và lấy bó vải gai.

Rồi họ đến một con đường khác. Ở đây họ thấy nhiều sồ ma được quăng bỏ.

Sau khi thấy nhiều dây sồ ma được quăng bỏ. Sau khi thấy nhiều vải sồ ma được quăng bỏ. Sau khi thấy nhiều cây bông được quăng bỏ. Sau khi thấy nhiều vải bông được quăng bỏ. Sau khi thấy nhiều sắt được quăng bỏ.

Sau khi thấy nhiều đồng được quăng bỏ. Sau khi thấy nhiều thiếc được quăng bỏ. Sau khi thấy nhiều chì được quăng bỏ. Sau khi thấy nhiều bạc được quăng bỏ. Sau khi thấy nhiều vàng được quăng bỏ.

Thấy vậy một người bạn nói với người bạn kia: Nhiều vàng được quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với cây gai hay với dây gai, hay với vải sồ ma, hay với cây bông, hay với vải bông, hay với sắt, hay với đồng, hay với thiếc, hay với chì, hay với bạc.

Vậy bạn hãy quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ quăng bỏ bao bạc. Hai chúng ta sẽ mang bao vàng mà đi.

Này ban, tôi đem bao cây gai này từ xa lại, và đống gai được bó buộc ký lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ. Bạn hãy tự biết mà làm. Và người bạn trước quăng bao bạc và lấy bao vàng. Cả hai về đến làng của mình.

Người bạn đem bao cây gai về, cha mẹ người ấy không được vui vẻ, vợ con người ấy không được vui, bạn bè người ấy không được vui vẻ, và do vậy anh ta không được hạnh phúc, hoan hỷ.

Còn người bạn đem bao vàng về, cha mẹ người ấy được vui vẻ, vợ con người ấy được vui vẻ, bạn bè người ấy được vui vẻ và do vậy người ấy được hạnh phúc hoan hỷ.

Cũng vậy Tôn Chủ, Ngài nói không khác gì ví dụ người mang bao cây gai.

Này Tôn Chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy! Này Tôn Chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy!

Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài. Với ví dụ đầu tiên của Tôn Giả Kassapa tôi đã hoan hỷ, thỏa mãn, nhưng tôi muốn nghe những câu hỏi đáp thông minh ấy vì tôi xem Tôn Giả Kassapa như người đáng được đối lập.

Thật kỳ diệu thay, Tôn Giả Kassapa! Thật hy hữu thay, Tôn Giả Kassapa!

Tôn Giả Kassapa, như một người giơ ra vật gì bị che kín, hay như người hướng dẫn cho kẻ bị lạc đường, hay như người đem đèn vào trong bóng tối cho người có mắt được thấy sắc, cũng vậy Chánh Pháp được Tôn Giả Kassapa dùng nhiều phương tiện trình bày.

Tôn Giả Kassapa, nay con quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ Kheo Tăng, Tôn Giả Kassapa, hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến trọn Đời xin nhận Ngài làm chỗ y chỉ.

Tôn Giả Kassapa, con muốn tổ chức một đại lễ tế đàn.

Tôn Giả Kassapa hãy giảng dạy cho con để con được hưởng hạnh phúc an lạc lâu dài.

Này Tôn Chủ, tại tế đàn có trâu bò bị giết, hay các loại sinh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, này Tôn Chủ, tế đàn ấy không đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, không được quảng bá rộng lớn.

Này Tôn Chủ, cũng như người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày. Và trên một khoảng đất không cày bừa, không có màu mỡ, giữa những gốc cây chưa được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy bị hư sứt, bị thúi mục, bị gió và sức nóng phá hại, trái mùa, không có điều kiện thuận tiện, và thần mưa không cho mưa đúng thời.

Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên và sum sê hoa lá lên hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không?

Tôn Giả Kassapa, không thể được!

Cũng vậy, này Tôn Giả, tại tế đàn nào có trâu bò bị giết hay các loại dê bị giết, hay gà và heo bị giết, hay các loại sinh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.

Này Tôn Chủ, tế đàn ấy không đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, không được quảng bá rộng lớn.

Này Tôn Chủ, tại tế đàn nào không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Này Tôn Chủ, tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn.

Này Tôn Chủ, cũng như một người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày. Và trên một khoảng đất có cày bừa, có màu mỡ, giữa những gốc cây đã được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy không bị hư sứt, không bị thúi mục, không bị gió và sức nóng phá hại, thuận mùa, có điều kiện thuận lợi và thần mưa cho mưa đúng thời.

Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên, sum sê hoa lá, hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không?

Tôn Giả Kassapa, thật được như vậy!

Cũng vậy, này Tôn Chủ, tại tế đàn nào mà không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Này Tôn Chủ, tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn. Rồi Tôn Chủ Pàyàsi tổ chức bố thí cho các vị Sa Môn, Bà La Môn, cho những người nghèo, những người vô gia cư, những người ăn mày.

Trong cuộc bố thí này, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, vải thô với những viền bằng hình tròn. Trong cuộc bố thí này, có vị thanh niên tên Uttàra bị bỏ qua.

Sau khi cuộc bố thí đã xong, vị nầy nói ngạo như sau: Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn Chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau.

Tôn Chủ Pàyàssi nghe thanh niên Uttàra sau khi cuộc bố thí đã xong, có nói ngạo: Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn Chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau, liền cho mời thanh niên Uttàra và nói: Này thân hữu Uttàra, có thật chăng, sau khi cuộc bố thí đã xong, ngươi có nói ngạo: Với cuộc bố thí này, ta gặp được Tôn Chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau?

Thật có vậy, này Tôn Chủ!

Này thân hữu Uttàra, tại sao, sau cuộc bố thí ngươi lại nói ngạo như vậy:

Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn Chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau?

Này thân hữu Uttàra, có phải chúng ta đi tìm công đức đều trông mong kết quả của cuộc bố thí?

Này Tôn Chủ, trong cuộc bố thí của Ngài, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, các món ăn này được Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là ăn.

Vải thô với những nền bằng hình tròn, các thứ vải này Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là mặc.

Tôn Chủ, Ngài là người thân và kính mến của chúng tôi.

Như thế nào, chúng tôi có thể phối hợp cái gì thân yêu và kính mến với cái gì không thân yêu?

Vậy này Thân hữu Uttàra, hãy phân phát các món ăn giống như các món tôi ăn, hãy phân phát các vải mặc, giống như các thứ vải mà tôi mặc.

Xin vâng, Tôn Chủ!

Thanh niên Uttàra vâng theo lời Tôn Chủ Pàyàsi, đem phân phát những món ăn giống như các món tôn chủ Pàyàsi ăn, đem phân phát các thứ vải, giống như các thứ vải tôn chủ Pàyàsi mặc.

Tôn Chủ Pàyàsi vì đã bố thí không được cho hoàn vị, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ vật phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên Vương, trong cung điện trống không của Serisaka.

Còn thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên Giới nhập chúng với Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên.

Lúc bấy giờ Tôn Giả Gavampati Ngưu Chủ thường hay đi nghỉ trưa trong cung điện trống không của Serisaka.

Nay Thiên Tử Pàyàssi đi đón Tôn Giả Gavampati, đảnh lễ Ngài, và đứng một bên.

Tôn Giả Gavampati nói với Thiên Tử Pàyàsi đang đứng một bên: Bạch Tôn Giả, con là tôn chủ Pàyàsi!

Này Hiền giả, có phải ngươi có tà kiến như sau: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo?

Bạch Tôn Giả, con có tà kiến như vậy: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiên ác không có quả báo, nhưng nhờ Tôn Giả Kumàra Kassapa, con tự thoát ly ra khỏi ác tà kiến ấy.

Này Hiền giả, còn thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, được thác sanh ở đâu?

Bạch Tôn Giả, thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên Giới, nhập chúng với Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên.

Còn con, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên Vương, trong cung điện trống không của Serisaka.

Do vậy, bạch Tôn Giả Gavampati, hãy đi đến Thế Giới loài người và nói như sau: Hãy bố thí một cách hoàn bị, hãy bố thí với tự tay mình làm, hãy bố thí một cách có suy tư, hãy bố thí với đồ không phế thải.

Tôn Chủ Pàyàsi, vì bố thí không hoàn bị, vì bố thí không tự tay mình làm, vì bố thí không có suy tư, vì bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên Vương trong cung điện trống không của Serisaka.

Còn thanh niên Uttàra, bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì bố thí một cách có suy tư, vì bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên Giới, nhập chúng với Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên.

Rồi Tôn Giả Gavampati đi vào trong Thế Giới loài người và nói như sau: Hãy bố thí một cách hoàn bị. Hãy bố thí với tự tay mình làm. Hãy bố thí một cách có suy tư. Hãy bố thí các đồ không phế thải.

Tôn Chủ Pàyàsi, vì bố thí không hoàn bị, vì bố thí không tự tay mình làm, vì bố thí không có suy tư, vì bố thí đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên Vương, trong cung điện trống không của Serisaka.

Còn thanh niên Uttàra, bị bỏ qua trong một cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách có hoàn bị, vì đã bố thí với tự tay mình làm, vì đã bố thí một cách suy tư, vì đã bố thí với các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên Giới, nhập chúng với Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường