Phật Thuyết Kinh Tu Ma đề Nữ - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Chi Khiêm, Đời Ngô

PHẬT THUYẾT KINH TU MA ĐỀ NỮ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Chi Khiêm, Đời Ngô  

PHẦN HAI  

Nghe như vậy!

Một thời Đức Phật du hóa ở vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ, cùng với chúng Đại Tỳ Kheo gồm đủ một ngàn hai trăm năm mươi vị.

Bấy giờ trưởng giả A Na Bân Trì là bậc giàu có, với nhiều tài sản quý giá, vàng bạc châu báu, xa cừ, mã não, ngọc quý, hổ phách, thủy tinh, lưu ly. Voi ngựa, bò dê, tỳ nữ nô bộc nhiều vô số kể.

Khi ấy, trong thành Mãn Phú, có trưởng giả tên Mãn Tài cũng là hàng cự phú với nhiều tài sản quý giá như xa cừ, mã não, ngọc quý, hổ phách, thủy tinh, lưu ly, voi ngựa, bò dê, tỳ nữ nô bộc, không thể tính hết. Ông ta là bạn của trưởng giả A Na Bân Trì từ lúc còn nhỏ, thân ái kính trọng nhau chưa một lúc nào rời.

Về sau, trưởng giả A Na Bân Trì thường xuyên đem ngàn vạn vàng ngọc quý giá cùng các tài sản hàng hóa, buôn bán ở trong thành Mãn Phú, nhờ trưởng giả Mãn Tài giúp đỡ, sắp đặt, ghi chép. trưởng giả Mãn Tài cũng có số ngàn vạn vàng ngọc quý giá và tài sản hang hóa đem đến buôn bán tại thành Xá Vệ, nhờ trưởng giả Bân trì giúp đỡ, trông coi.

Trưởng giả A Na Bân Trì có con gái tên Tu Ma Đề, dung mạo đoan chánh, sắc đẹp như hoa đào, hiếm có trên đời.

Gặp lúc trưởng giả Mãn Tài có ít công việc nên vào thành Xá Vệ, đi đến nhà trưởng giả A Na Bân Trì, tới nơi, ngồi vào chỗ. Tu Ma Đề nữ từ tịnh thất đi ra, trước tiên quỳ lễ bái cha mẹ, sau đó quỳ lễ bái trưởng giả Mãn Tài rồi lui vào phòng riêng.

Khi trưởng giả Mãn Tài trông thấy Tu Ma Đề nữ dung mạo đoan chánh, tươi đẹp, trên đời thật ít có, bèn hỏi trưởng giả A Na Bân Trì: Đây là con gái nhà ai vậy?

A Na Bân Trì đáp: Thiếu nữ mà bạn vừa thấy là con gái của tôi.

Trưởng giả Mãn Tài nói: Tôi có đứa con trai nhỏ chưa lấy vợ, bạn có thể gả con gái cho nhà nghèo này không?

Khi ấy trưởng giả Bân trì đáp: Việc này không nên!

Trưởng giả Mãn Tài nói: Vì sao mà việc ấy lại không nên?

Vì vọng tộc hay vì tài sản?

Trưởng giả A Na Bân Trì đáp: Dòng họ tài sản đều như nhau, chỉ có sự phụng thờ thần linh của bạn cùng gia đình tôi thì không giống nhau. Con gái tôi là đệ tử tôn thờ Phật Thích Ca, còn nhà bạn thì thờ ngoại đạo dị học. Lý do là vậy nên không thể đáp ứng theo ý bạn được.

Trưởng giả Mãn Tài nói: Sự phụng thờ của gia đình chúng tôi có cúng lễ riêng. Cô ấy như về làm dâu, thì được cúng dường theo tín ngưỡng của mình.

Trưởng giả A Na Bân Trì nói: Nếu con gái tôi gả sang nhà bạn thì vàng ngọc quý giá phải bỏ ra không sao tính hết. Vậy trưởng giả cũng phải bỏ ra vàng ngọc quý giá khá nhiều đấy!

Trưởng giả Mãn Tài hỏi: Nay bạn đồng ý thì số tài sản quý giá bên tôi sẽ bỏ ra là bao nhiêu?

Trưởng giả Bân trì đáp: Hiện nay tôi cần bạn bỏ ra sáu vạn lượng vàng.

Ngay lúc đó trưởng giả Mãn Tài liền đưa đủ số lượng vàng ấy.

Trưởng giả A Na Bân Trì tự nghĩ: Ta đã dùng phương tiện để từ chối trước nhưng vẫn không thể ngăn được, bèn nói với trưởng giả Mãn Tài: Nếu tôi gả con gái thì phải đến hỏi Đức Phật, xem Đức Thế Tôn có dạy điều gì, tôi sẽ theo đấy phụng hành.

Khi ấy trưởng giả A Na Bân Trì, giả đặt ra sự việc tợ như nói đùa, rồi đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát chân Ngài, đứng qua một bên, bạch Phật: Trưởng giả Mãn Tài thành Mãn Phú cầu hôn Tu Ma Đề nữ cho con trai ông ta, vậy con có nên gả hay không?

Thế Tôn dạy: Nếu đưa Tu Ma Đề nữ gả sang nước kia thì có nhiều lợi ích, sẽ độ thoát cho dân chúng không thể tính kể.

Bấy giờ trưởng giả A Na Bân Trì tự nghĩ: Thế Tôn dung phương tiện nhận biết nên mới bảo ta gả con sang nước kia. trưởng giả liền đầu mặt lạy nơi chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi từ giã. Ông ta trở về nhà, bày biện nhiều món ăn uống thịnh soạn mời trưởng giả Mãn Tài.

Trưởng giả Mãn Tài nói: Tôi dùng thức ăn này làm gì! Chỉ cần bạn có đồng ý gả con gái cho gia đình tôi hay không?

A Na Bân Trì đáp: Ý bạn đã muốn vậy, tôi xin vâng theo. Mười lăm ngày sau bạn đưa con trai đến đây.

Sau khi nói xong, hai bên chia tay nhau.

Bấy giờ trưởng giả Mãn Tài sắm sửa đầy đủ các vật dụng cần thiết, dùng xe gắn lông quý, đi đến cách thành khoảng tám mươi do diên.

Trưởng giả A Na Bân Trì cũng trang sức cho con gái mình, tắm gội thoa chất thơm, đi xe gắn lông quý, đưa cô gái đi đón tiếp con trai của trưởng giả Mãn Tài. Họ gặp nhau giữa đường. Khi ấy trưởng giả Mãn Tài được con dâu, liền đưa về nhà mình trong thành Mãn Phú.

Thời đó dân chúng nơi thành này có đặt ra quy chế: Con gái ở đây mà đi lấy chồng nơi nước khác thì gia đình phải bị phạt nặng, con trai cưới vợ từ nước khác đem về xứ này thì cũng bị phạt nặng.

Theo quy chế, nếu ai vi phạm sẽ bị phạt là dọn ăn cho sáu ngàn Phạm Chí. trưởng giả Mãn Tài biết mình đã phạm quy chế, liền lo dọn thức ăn cho sáu ngàn Phạm Chí. Những thức ăn này gồm các món thịt nướng, thịt heo nấu canh xúp và rượu cất nhiều lần. Lại nữa còn phải giúp y phục cho các Phạm Chí mặc, hoặc bằng vải trắng hoặc bằng vải lông mịn. Nhưng theo phép của họ thì những khi đi vào, lấy y vắt lên vai bên phải, nửa thân dưới bày ra.

Lúc ấy trưởng giả thưa với các Phạm Chí: Giờ đã đến, thức ăn uống đã đủ, xin mời các vị! Sáu ngàn Phạm Chí đều vắt y lên một bên vai, nửa thân dưới bày ra, đi vào nhà trưởng giả. trưởng giả thấy các vị Phạm Chí đến, bèn đi ra ở trước, quỳ xuống cung kính nghênh đón làm lễ. Vị Phạm Chí lớn nhất đưa tay chúc mọi sự tốt đẹp, rồi choàng cổ trưởng giả đi đến chỗ ngồi. Các Phạm Chí khác đều tùy theo thứ lớp mà an tọa.

Khi sáu ngàn Phạm Chí đã ổn định chỗ ngồi xong, trưởng giả nói với Tu Ma Đề nữ: Con hãy trang nghiêm hướng về các vị thầy của ta làm lễ.

Tu Ma Đề nữ trả lời: Thôi thôi, thưa Ngài! Con không thể vâng lời làm lễ những kẻ lõa lồ như vậy.

Trưởng giả nói: Đây không phải là những kẻ lõa lồ, chẳng phải là không biết hổ thẹn, chỉ vì y phục mặc như vậy là pháp phục của họ.

Tu Ma Đề nữ nói: Đây là những người không biết hổ thẹn, cùng nhau phô bày hình thể ra ngoài, chứ pháp phục gì vậy?

Xin trưởng giả nghe cho, Đức Thế Tôn đã dạy, có hai sự việc là nhân duyên để người quý trọng, đó là có hổ, có thẹn. Nếu hiện nay không có hai việc ấy thì cha mẹ, anh em, tông tộc năm họ, tôn ti cao thấp không thể phân biệt được, cũng như các loài cầm thú sống lẫn lộn với nhau không có phép tắc gì.

Nhờ có hai pháp này mà ở thế gian mới có thứ tự tôn ti. Nhưng những người kia đã xa lìa hai pháp ấy, khác nào đám cầm thú cùng sống chung, thật không thể nào hướng đến họ lễ bái được.

Bấy giờ chồng của Tu Ma Đề nữ nói với vợ: Nàng nên đứng dậy, làm lễ các vị thầy của ta. Những người này là những bậc trời mà ta luôn thờ phụng.

Tu Ma Đề nữ trả lời: Này Tộc Tánh Tử, thôi đi! Thiếp thật không thể hướng đến những kẻ lõa lồ không chút hổ thẹn ấy để làm lễ được.

Nay mình là người lại hướng về đám súc vật làm lễ sao!?

Người chồng lại nói: Ngừng lại! Ngừng lại! Này cô gái quý, chớ nói lời như thế, hãy giữ mồm miệng, đừng nên xúc phạm. Họ không phải là con vật, chẳng phải điên cuồng mê hoặc, chỉ vì y phục của họ mặc chính là pháp y.

Bấy giờ Tu Ma Đề nữ khóc lóc, nước mắt đầm đìa, nhan sắc đổi khác, vẫn nói: Tôi cũng như cả cha mẹ năm họ thà bị hình phạt chặt năm chi thể, dứt cả mạng sống, chứ quyết không rơi vào nẻo tà kiến.

Khi ấy cả sáu ngàn Phạm Chí cùng nhau lớn tiếng nói: Hãy ngừng lại! Ngừng lại, ông trưởng giả! Tại sao lại để cho kẻ ti tiện ấy mắng chửi lung tung như vậy. Nếu hiện nay ngươi có dốc lòng mời thì hãy bày biện các thức ăn uống.

Bấy giờ vị trưởng giả và người chồng Tu Ma Đề nữ lo dọn các thứ thức ăn đã chuẩn bị sẵn, cùng với rượu cất nhiều lần cho sáu ngàn Phạm Chí, họ đều ăn uống đầy đủ. Các Phạm Chí sau khi ăn uống xong, bèn bàn luận công việc đối phó, rồi đứng dây ra về.

Lúc ấy trưởng giả Mãn Tài ở trên lầu cao, phiền não sầu muộn, ngồi một mình suy nghĩ: Nay ta đem cô gái này về, chính là phá nhà, chứ không ai khác, vì đã làm nhục gia đình ta.

Bấy giờ có vị Phạm Chí tên Tu Bạt, đạt được ngũ thông và cũng đã chứng đắc các pháp thiền định. trưởng giả Mãn Tài đối với vị này luôn rất quý trọng.

Khi ấy Phạm Chí Tu Bạt tự nghĩ: Ta cùng trưởng giả Mãn Tài từ biệt đã lâu ngày, nay nên đến thăm. Thế là Phạm Chí đi vào thành Mãn Phú đến nhà trưởng giả, hỏi người giữ cửa.

Người này trả lời: Trưởng giả hiện ở trên lầu, đang rất âu sầu buồn bã, không thể nói hết.

Phạm Chí bèn lên lầu cùng trưởng giả gặp nhau.

Phạm Chí hỏi trưởng giả: Tại sao trưởng giả ưu sầu đến như vậy?

Có phải là do triều đình, hay trộm hà chăng?

Hoặc là trong nhà có sự bất hòa?

Trưởng giả đáp: Không phải tai biến do triều đình hay trộm cướp, chỉ vì trong nhà có duyên sự không vừa ý.

Phạm Chí hỏi: Xin được nghe về tình trạng đó, có duyên sự gì?

Trưởng giả đáp: Hôm qua vì con trai tôi cưới vợ, do phạm quy chế trong nước, năm họ bị nhục, nên thỉnh mời thầy về tại nhà cúng dường, tôi bảo đứa con dâu ra chào hỏi nhưng nó không nghe lời.

Phạm Chí Tu Bạt hỏi: Nhà cô gái này ở nước nào?

Cưới vợ cho con trai gần hay xa?

Trưởng giả trả lời: Cô gái này là con của trưởng giả A Na Bân Trì trong thành Xá Vệ.

Phạm Chí Tu Bạt nghe nói xong thì lấy làm ngạc nhiên kinh sợ, hai tay bịt tai, nói to lên: Này trưởng giả, chuyện này kỳ lạ thật, rất đặc biệt. Cô gái ấy mà còn sống, lại không tự sát hay nhảy xuống lầu là điều may mắn lớn.

Tại sao vậy?

Vị thầy cô ta thờ phụng, là Bậc Đại Phạm Hạnh.

Hôm nay, cô ta còn ở đây đã là chuyện đặc biệt.

Trưởng giả hỏi: Tôi nghe bạn nói thật là buồn cười. Bạn là người ngoại đạo dị học, vì sao lại đi ca ngợi đức hạnh của Sa Môn dòng họ Thích.

Vị thầy của cô gái thờ phụng có uy đức gì, có thần biến gì chăng?

Phạm Chí Tu Bạt trả lời: Này trưởng giả, có muốn nghe thần thông và đạo đức của thầy cô gái ấy không?

Nay tôi sẽ nói qua về nguồn gốc của nó.

Trưởng giả đáp: Xin nghe bạn nói.

Phạm Chí bảo: Ngày trước, tôi đi đến phía Bắc Tuyết Sơn, đi khất thực trong nhân gian, xong việc tôi bay đến suối A Nậu Đạt.

Khi đó Trời, Rồng, Quỷ Thần từ xa thấy tôi đến, đều cầm dao kiếm tiến về phía tôi, bảo: Này tiên sĩ Tu Bạt, ông không được đến nghỉ ở bờ suối này, đừng làm mất vẻ thanh tịnh ở đây. Nếu không tuân theo lời chúng tôi thì ông sẽ khó giữ lấy mạng sống đấy. Tôi nghe lời này, liền rời khỏi suối, cách đó không xa lắm để ăn.

Trưởng giả nên biết, vị thầy của cô gái ấy thờ phụng, có một đệ tử nhỏ là Sa Di Quân đầu. Vị này cũng khất thực ở vùng núi phía Bắc Tuyết Sơn, và bay đến suối A Nậu Đạt, tay ôm tấm y của người đã qua đời nơi nghĩa địa, y còn dính nước mắt, máu bụi dơ nhớp.

Khi ấy vị đại thần của suối nước và các chúng Trời, Rồng, Quỷ Thần ở đấy đều đứng dây bước ra trước nghênh tiếp, cung kính thăm hỏi: Lành thay! Vị thầy của loài người hãy đến đây, mời ngồi vào chỗ này.

Sa Di Quân đầu bèn đi đến suối nước. Lại nữa, này trưởng giả, ngay giữa suối có một cái bàn bằng vàng. Sa Di Quân đầu đem tấm y kia, ngâm vào trong nước, sau đó ngồi ăn, ăn xong, rửa bát, ngồi kiết già trên chiếc bàn bằng vàng ấy, chánh thân chánh ý, niệm ở trước, liền vào Sơ Thiền.

Từ Sơ Thiền lần lượt vào đệ Nhị Thiền, Đệ Tam Thiền, rồi Đệ Tứ Thiền. Từ Đệ Tứ Thiền lần lượt vào Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng Vô tưởng xứ. Từ Hữu tưởng Vô tưởng xứ lại lần lượt vào Diệt tận tam muội, Diễm quang tam muội, Thủy khí tam muội.

Từ Thủy khí tam muội trở lại nhập Diễm quang tam muội, sau đó nhập vào các pháp Diệt tận tam muội, Hữu tưởng Vô tưởng tam muội, Bất dụng xứ tam muội, Thức xứ tam muội, Không xứ tam muội, rồi trở lại vào Đệ Tứ Thiền, Đệ Tam Thiền, Đệ Nhị Thiền, Sơ Thiền.

Sau khi ra khỏi cảnh giới Thiền định, vị ấy bèn giặt tấm y của người đã chết. Bấy giờ các vị Trời, Rồng, Quỷ Thần đều cùng giúp cho công việc giặt giũ ấy, hoặc dùng nước rưới lên, hoặc dùng nước giặt ấy để uống.

Tấm y được giặt sạch, Sa Di Quân đầu đưa lên không trung để phơi khô, rồi thu xếp gọn gàng, xong liền bay lên không trung trở về lại chỗ cũ. trưởng giả nên biết là tôi đứng từ xa trông thấy chứ không được lại gần.

Đệ tử nhỏ nhất của vị thầy mà cô gái ấy thờ phụng đã có thần lực đến như vậy, huống chi là đệ tử lớn nhất thì ai có thể bì kịp?

Như thế bậc thầy của họ là Đức Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác thì uy thần làm sao có thể lường được?

Tôi xem xét ý nghĩa đó nên mới nói là việc này rất kỳ lạ hết sức đặc biệt, cô gái đó sao có thể còn sống mà không tự sát, không cắt đứt thọ mạng mình.

Trưởng giả nghe xong bèn nói với Phạm Chí: Chúng tôi có thể gặp được vị thầy mà cô gái ấy thờ phụng không?

Phạm Chí trả lời: Nên hỏi cô gái ấy xem.

Trưởng giả bèn hỏi Tu Ma Đề nữ: Nay cha muốn được gặp vị thầy mà con tôn kính.

Con có thể làm cho vị ấy đến đây chăng?

Cô gái nghe nói, vui mừng hớn hở, liền thưa: Xin sửa soạn các thức ăn uống ngay bây giờ, ngày mai Đức Như Lai sẽ đến đây cùng các vị Tỳ Kheo Tăng.

Trưởng giả nói: Tự con lo việc thỉnh mời, cha không rõ nghi thức.

Cô dâu ông trưởng giả lo tắm gội sạch sẽ, tay cầm hương đèn đi lên lầu cao, chắp tay hướng về Đức Như Lai, thưa: Cầu mong Đức Thế Tôn, Ngài khéo quán sát, tuy con không thấy được Ngài, nhưng Thế Tôn không việc gì là không biết, không việc gì là không thấu suốt. Nay con đang ở trong chốn nguy khốn, cầu mong Thế Tôn khéo xem xét đến con.

Quán sát bằng mắt Phật

Xem khắp đời không sót

Hàng phục Ma, Thần Vương

Và hàng Quỷ Tử Mẫu

Như quỷ kia ăn người

Lấy tay người làm chuỗi

Sau đó muốn hại mẹ

Nhưng Phật vẫn hàng phục.

Lại, tại thành La Duyệt

Voi dữ muốn đến hại

Tự tùy thuận quy y

Chư Thiên khen lành thay

Sau đến nước Ô Trì

Lại gặp Long Vương ác

Thấy lực sĩ Mật Tích

Nên rồng tự quy y

Biến hóa không thể tính

Đều đưa vào chánh đạo

Nay con gặp nguy ách

Cầu Phật ra uy thần.

Bấy giờ hương như mây

Giăng khắp trên hư không

Bao trùm khu Kỳ Hoàn

Trụ ở trước Như Lai

Chư Thiên trong hư không

Hoan hỷ đảnh lễ Phật

Lại thấy hương ở trước

Chỗ thỉnh của Ma Đề

Thành vô số mưa hoa

Không thể nào đếm hết

Tràn đầy rừng Kỳ Hoàn

Như Lai cười, phóng quang.

Vào lúc ấy, Tôn Giả A Nan nhìn thấy trong khu Kỳ Hoàn có loại hương kỳ lạ, bèn đi đến gặp Thế Tôn, đầu lạy sát chân Phật, đứng qua một bên, rồi thưa: Kính thưa Thế Tôn, đây là loại hương gì mà tỏa khắp cả khu Tinh Xá Kỳ Hoàn.

Thế Tôn nói: Hương này là của sứ giả tìm đến Phật, do sự thỉnh cầu của Tu Ma Đề nữ nơi thành Mãn Phú.

Nay ông hãy gọi các vị Tỳ Kheo tập hợp hết lại một nơi, phát thẻ và phổ biến: Các vị Tỳ Kheo là bậc A La Hán, dứt sạch các lậu đạt được thần túc thì nên nhận thẻ, sáng mai sẽ đến thành Mãn Phú, thọ thỉnh của Tu Ma Đề.

A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con xin vâng lời.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần