Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Năm - Thiên đại Phẩm - Chương Hai - Tương ưng Giác Chi - Phẩm Tống Nhiếp Giác Chi - Phần Năm - Sangàrava

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT

KINH TƯƠNG ƯNG BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP NĂM

THIÊN ĐẠI PHẨM  

CHƯƠNG HAI

TƯƠNG ƯNG GIÁC CHI  

PHẨM TỔNG NHIẾP GIÁC CHI  

Tất cả nhân duyên ở Sàvatthi  

PHẦN NĂM

SANGÀRAVA  

Rồi Bà La Môn Sangàrava đi đến Thế Tôn.

Sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, vị ấy liền ngồi xuống một bên.

Ngồi một bên, Bà La Môn Sangàrava thưa với Thế Tôn:

Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn Giả Gotama, có khi các chú thuật mantà mà tôi học thuộc lòng lâu ngày sajjhàyakatà: đọc tụng lại không nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng?

Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn Giả Gotama, có khi các chú thuật mà tôi không học thuộc lòng lâu ngày, lại nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật được học thuộc lòng?

Này Bà La Môn, khi trú với tâm bị dục tham kàmaràga xâm chiếm, bị dục tham chi phối và không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên.

Trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích cả hai.

Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Ví như, này Bà La Môn, một bát nước trộn lẫn với thuốc nhuộm gôm lắc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh, hay màu vàng, và ở đây một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, không có thể như thật biết được, thấy được.

Cũng vậy, này Bà La Môn, trong khi trú với tâm bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham chi phối, không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên.

Trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích cả hai.

Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Lại nữa, này Bà La Môn, khi trú với tâm bị sân xâm chiếm, bị sân chi phối, không như thật biết sự xuất ly khỏi sân đã khởi lên.

Trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích cả hai.

Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Ví như, này Bà La Môn, một bát nước được lửa đun sôi, sôi lên sùng sục, sôi lên cuồn cuộn. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.

Cũng vậy, này Bà La Môn, trong khi trú với tâm bị sân xâm chiếm, cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Lại nữa, này Bà La Môn, khi trú với tâm bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, bị hôn trầm thụy miên chi phối, không như thật biết sự xuất ly ra khỏi hôn trầm thụy miên đã khởi lên.

Trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích cả hai.

Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Ví như, này Bà La Môn, một bát nước bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.

Cũng vậy, này Bà La Môn, trong khi trú với tâm bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Lại nữa, này Bà La Môn, khi trú với tâm bị trạo hối xâm chiếm, bị trạo hối chi phối, không như thật biết sự xuất ly khỏi trạo hối đã khởi lên.

Trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích cả hai.

Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Ví như, này Bà La Môn, một bát nước bị gió thổi, dao động, chấn động, nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà La Môn, khi trú với tâm bị trạo hối xâm chiếm, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Lại nữa, này Bà La Môn, trong khi trú với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc chi phối, và không như thật biết sự xuất ly khỏi nghi hoặc đã khởi lên.

Trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy sự lợi ích của mình. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy sự lợi ích của người. Trong khi ấy, không như thật biết và thấy sự lợi ích cả hai.

Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Ví như, này Bà La Môn, một bát nước bị khuấy động, khuấy đục, khuấy bùn, đặt trong bóng tối. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.

Cũng vậy, này Bà La Môn, khi trú với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc chi phối, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Ðây là nhân, đây là duyên, này Bà La Môn, có khi các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.

Này Bà La Môn, khi trú với tâm không bị dục tham xâm chiếm, không bị dục tham chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất ly của dục tham đã khởi lên.

Trong khi ấy, người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình. Trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người. Trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả hai.

Cho nên, các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng. Ví như, này Bà La Môn, một bát nước không trộn lẫn với thuốc gôm lắc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh, hay màu vàng.

Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà La Môn, khi trú với tâm không bị dục tham xâm chiếm, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.

Lại nữa, này Bà La Môn, khi trú với tâm không bị sân xâm chiếm, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng. Ví như, này Bà La Môn, một bát nước không được lửa đun sôi, không sôi lên sùng sục, không sôi lên cuồn cuộn.

Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà La Môn, khi trú với tâm không bị sân xâm chiếm, không bị sân chi phối, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.

Lại nữa, này Bà La Môn, khi trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi phối, còn nó gì các chú thuật đã được học thuộc lòng. Ví như, này Bà La Môn, một bát nước không bị rong rêu che phủ.

Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà La Môn, trong khi trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi phối, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.

Lại nữa, này Bà La Môn, khi trú với tâm không bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.

Ví như, này Bà La Môn, một bát nước không bị gió thổi, không bị dao động, không bị chấn động, không bị nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được.

Cũng vậy, này Bà La Môn, trong khi trú với tâm không bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.

Lại nữa, này Bà La Môn, trong khi trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.

Ví như, này Bà La Môn, một bát nước trừng tịnh, trong sáng, không bị khuấy động, đặt giữa ánh sáng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được.

Cũng vậy, này Bà La Môn, trong khi trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối và như thật biết sự xuất ly khỏi nghi hoặc đã khởi lên.

Trong khi ấy, người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình. Trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người. Trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả hai.

Cho nên, các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng. Ðây là nhân, đây là duyên, này Bà La Môn, có khi các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày lại có thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.

Có bảy giác chi này, này Bà La Môn, không chướng ngại, không triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.

Thế nào là bảy?

Niệm giác chi, này Bà La Môn, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát, xả giác chi, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.

Bảy giác chi này, này Bà La Môn, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.

Khi được nói vậy, Bà La Môn Sangàrava bạch Thế Tôn: Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần